Nhân dịp các nước xem lại chính sách năng lượng hạt nhân

Nhật, Anh, Đức, Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc…và còn rất nhiều nước khác đều đã tuyên bố sẽ xem xét lại chính sách phát triển năng lượng hạt nhân.  Hôm nay, một ông to to của Anh nói là các lò phản ứng thế hệ mới sẽ có thể không bao giờ  được xây dựng tại Anh. Mỹ tuyên bố dừng các dự án xây dựng lò mới đã được thông qua trước đây. Thảm họa hạt nhân tức là chết, không phương cứu chữa. Chết 1 thế hệ và rất nhiều thế hệ tiếp theo.

CHUYÊN GIA VỀ KHÍ HẬU NÓI VỀ FUKUSHIMA:

‘Chúng ta đang cướp quá khứ và tương lai để nuôi hiện tại’

Nhà khoa học khí hậu nổi tiếng thế giới người Đức Hans Joachim Schellnhuber trong cuộc trò chuyện với tạp chí SPIEGEL đã chia sẻ suy nghĩ của ông về những bài học từ thảm họa của nhà máy điện Fukushima (Nhật Bản), tương lai của năng lượng hạt nhân ở Đức, và vì sao xã hội cần phải thay đổi cho một tương lai an toàn hơn cho loài người. Ông cảnh báo: “Chúng ta tiêu thụ dầu trong 1 năm tương đương với mức dầu cần tới 5,3 triệu năm mới đủ sức hình thành”.

SPIEGEL: Ai hoặc cái gì là nguyên nhân gây ra thảm họa Fukushima?

Schellnhuber: Trận động đất chỉ là cái cò súng. Thói quen suy nghĩ logic điên khùng mà chúng ta áp dụng khi đối phó các nguy cơ trong khoa học là buộc tội (ai đó, cái gì đó). Chúng ta chỉ bảo vệ bản thân trước những nguy hiểm trong trường hợp nó khả thi về mặt kinh tế trong thời điểm cụ thể, hoặc chúng ta có khả năng kiểm soát trong điều kiện hoạt động bình thường. Nhưng mức độ Richter của động đất là không có giới hạn. Tại sao một nhà máy điện hạt nhân của Nhật lại chỉ được thiết kế với sự chịu đựng động đất là 8,2 độ Richter, và không kể tới phương án bị sóng thần tấn công?
SPIEGEL: Có thể là vì nếu không như thế thì điện từ nhà máy điện hạt nhân sẽ trở nên quá đắt đỏ.
Schellnhuber: Toàn bộ mô hình kinh tế dựa trên nền tảng sung túc, giàu có của thời sau chiến tranh, dù ở Nhật hay Đức, đều dựa trên tư tưởng là: năng lượng rẻ và sức tiêu thụ vật chất đang tăng và đó là nguyên nhân khiến chúng ta càng ngày càng hạnh phúc hơn. Đó là lý do các nhà máy điện hạt nhân đang được xây ở những khu vực rất có biến động về mặt địa lý, và chúng ta tiêu thụ lượng dầu trong 1 năm tương đương với mức cần 5,3 triệu năm mới đủ sức hình thành. Chúng ta đang cướp của cả quá khứ và tương lai để nuôi hiện tại. Đó là lối suy nghĩ độc tài của cái gọi là “ở đây” và “bây giờ”.
SPIEGEL: Ông có giải pháp nào thay thế?
Schellnhuber: Chúng ta cần phải chấm dứt thái độ tảng lơ những vấn đề thực sự có hại cho xã hội. Ngoài những thảm họa về hạt nhân, còn là viễn cảnh Trái đất nóng hơn từ 6-8 độ C vào năm 2200. Chỉ khi chúng ta thực sự đánh giá đầy đủ và suy nghĩ nghiêm túc về những mức thiệt hại cao nhất có thể gặp phải, thì chúng ta mới có thể quyết định sẽ cổ vũ thực sự cho một loài hình công nghệ cụ thể hay không.
SPIEGEL: Cho tới nay, ông không phải là người lên tiếng phản đổi năng lượng hạt nhân.
Schellnhuber: Tôi cũng không phải là người ủng hộ năng lượng hạt nhân. Quan điểm của tôi là: Hãy tranh thủ các chi phí lợi ích của những nhà máy hạt nhân hiện nay để nhanh chóng phát triển các hệ thống năng lượng tái tạo. Tôi hi vọng điều gì đó tốt đẹp sẽ nảy nở từ những điều tồi tệ.
SPIEGEL: Ông suy nghĩ gì trước kế hoạch “tạm đóng cửa 7 nhà máy điện hạt nhân” của chính phủ Đức?
Schellnhuber: Đó là việc làm đúng đắn. Điều đã xảy ra ở Nhật có thể xảy ra ở Đức nếu một chi tiết của việc không may trong rất nhiều việc không may diễn ra. Đó là chuyện không tránh khỏi của việc có thể không có thực. Nhưng cách mà chính phủ tiếp cận để giải quyết vấn đề không có lợi cho văn hóa chính trị của Đức.
SPIEGEL: Vì sao?
Schellnhuber: Năm ngoái, chính phủ tuyên bố các nhà máy hạt nhân của Đức an toàn. Điều này cho phép tôi có 2 kết luận: Hoặc là họ không biết được toàn bộ sự thật vào thời điểm đó, nghĩa là đó là chính sách tồi; hoặc họ phản ứng theo kiểu “thái độ lạc quan”, tức là chính sách đó còn tồi hơn.
SPIEGEL: Ông có cảm thấy lo ngại về chính sách chống hạt nhân của chính phủ sẽ dẫn tới tình trạng khí thải CO2 nhiều hơn, vì than đá lại được dùng lại?
Schellnhuber: Thực ra, tôi tin là đây chính xác là điều mà Thủ tướng Angela Merkel sẽ không cho phép. Bây giờ, mọi người đều bắt đầu hiểu là hệ thống hoạt động phụ thuộc hoàn toàn vào nhiên liệu hóa thạch sẽ không có tương lai, và cần phải đầu tư lớn vào nguồn năng lượng tái tạo.


SPIEGEL: Ông có cảm thấy sự thay đổi bất ngờ của chính phủ liên quan tới chính sách năng lượng là đầy đủ chưa?

Schellnhuber: Chưa. Đây chỉ là điểm khởi đầu của sự chuyển dịch sâu sắc. Hội đồng tham vấn Đức về Thay đổi toàn cầu mà tôi là chủ tịch sẽ sớm đưa ra 1 kế hoạch mang tính vĩ mô cho sự thay đổi của xã hội. Chính xác là vì Fukushima, chúng tôi càng tin là cơ sở mới cho khả năng cùng tồn tại là cần thiết.
SPIEGEL: Điều đó có nghĩa là gì?
Schellnhuber: Chúng ta cần một khế ước xã hội cho thế kỷ 21 để đảm chứng cho mong ước chung nhằm tạo ra công nghiệp bền vững. Chúng ta phải giải quyết một lần, và cho tất cả, để có thể để lại cho hậu thế nhiều hơn là 1 di sản chỉ toàn những thảm họa hạt nhân và biến đổi khí hậu. Điều này cần có sự thấu cảm vượt không gian và thời gian. Để thúc đẩy điều này, quyền của các thế hệ tương lai cần phải được coi là thiêng liêng trong hiến pháp Đức.


SPIEGEL: Và cụ thể?

Schellnhuber: Ví dụ, chúng ta phải ổn định tiêu thụ năng lượng ở mức hợp lý. Nếu chúng ta bắt đầu khai thác hết tiềm năng sử dụng năng lượng hiệu quả ở Đức, chúng ta sẽ chỉ cần ít hơn 30% nhu cầu năng lượng hiện tại, mà không cần phải đánh đổi gì hết.
SPIEGEL: Làm thế nào có thể thuyết phục một xã hội về sự cần thiết hạn chế tiêu thụ năng lượng?
Schellnhuber: Chỉ có thể làm được dựa vào thay đổi văn hóa. Cuối cùng, xã hội cần có sự thảo luận, trao đổi, tranh luận hoàn toàn khác so với văn hóa trao đổi, tranh luận trước đây. Đây mới chính là loại thay đổi mà tôi cảm thấy khó khăn nhất.
SPIEGEL: Vì sao các thông điệp của ông chưa được tiếp nhận nhiều cho tới nay?
Schellnhuber: Tôi không phải là nhà tâm lý học hay xã hội học. Nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, sự yêu thích tính tiện dụng và sự ngu dốt là 2 sai sót lớn nhất trong tính cách của con người. Nếu hai thứ đó kết hợp với nhau thì sẽ là thảm họa chết người.

Box: Nhà khoa học Hans Joachim Schellnhuber, 60 tuổi, là chuyên gia vật lý và nghiên cứu khí hậu nổi tiếng thế giới. Sau khi làm việc ở Đức và Mỹ, ông được chỉ định là giám đốc sáng lập ra Viện Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu Potsdam vào năm 1991, và vẫn ở vị trí đó cho tới ngày nay. Ông là cố vấn của Thủ tướng Đức Angela Merkel về các vấn đề liên quan tới khi hậu với vai trò Chủ tịch hội đồng tham vấn Đức về Thay đổi toàn cầu (WBGU).

Fukushima: một cảnh cáo đối với nhân loại

Tác giả: Nguyễn Khắc Nhẫn

Diễn biến

Trận động đất hết sức lớn (8,9° Richter – đã làm xê dịch đảo Honshu của nước Nhật 2,4 m về hướng đông theo Viện địa chất Mỹ  USGS) và sóng thần kinh khủng tại vùng đông bắc Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã gây ra thảm họa đang diễn biến tại nhà máy điện hạt nhân tỉnh Fukushima (cách Tokyo 250 km về phía Bắc).

Về số lò điện hạt nhân, Nhật Bản đứng thứ ba với 55 lò (tỷ lệ điện hạt nhân là 30%) sau Pháp 58 lò (78%) và Mỹ 104 lò (20%).

Nhà máy Fukushima Daiichi 1 có 6 lò phản ứng (trong số đó, các lò 4-5-6 ngừng vận hành trước trận động đất vì đang được bảo trì) và nhà máy Fukushima Daini 2 cách đó 10 km có 4 lò phản ứng. Các lò Daiichi được xây cất vào đầu những năm 70 và các lò Daini vào những năm 80 bởi các Công ty General Electric, Toshiba và Hitachi. Kiểu lò nước sôi BWR (Boiled Water Reactor) này rất phổ biến ở Nhật khác với kiểu lò nước áp suất PWR (Pressurized Water Reactor) thông dụng trên thế giới, đặc biệt ở Pháp. Hai kiểu lò này tương đối an toàn hơn lò nhà máy Tchernobyl RBMK (Reaktor Bolchoi Mochtchnosti Kanalni) của Ukraine vì có vỏ bêtông cốt thép bọc lò dày 1,5m (enceinte de confinement) để ngăn cản phóng xạ thoát ra ngoài.

Ngày 11/3, ngay sau trận động đất xảy ra, các lò phản ứng ở Fukushima tự động ngừng hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống làm lạnh cần phải tiếp tục làm việc để giảm nhiệt độ dư rất cao trong lò. Không may, trận động đất đã làm tê liệt hệ thống cung cấp điện . Các máy phát điện dự phòng diesel được khởi động để cung cấp điện cho hệ thống làm lạnh nhưng chỉ một tiếng đồng hồ sau, tất cả các máy dự phòng này đều hỏng do sóng thần tràn vào. Nhà máy được thiết kế để chống sóng thần, nhưng mức nước lên cao quá 10 m! Có Pin tiếp cứu nhưng cũng không được lâu lắm và các xe phát điện di động thì lại đến quá trễ!

Thiếu hệ thống làm lạnh lò phản ứng, hơi nước sinh ra nhiều và làm tăng áp suất trong lò (840 kPa, gấp đôi mức bình thường).  Dù đã cố gắng xả hơi vào các không gian rộng hơn của nhà máy và kể cả xả ra ngoài không gian, TEPCO (Công ty Điện lực Tokyo) cũng không thành công trong việc làm giảm áp suất. Vào lúc 15h36 ngày 12/3 (giờ địa phương), một vụ nổ vì khí hydro đã xảy ra tại tòa nhà lò phản ứng số 1 (460 MW) của nhà máy Fukushima Daiichi. Vụ nổ làm tung bay một phần tòa nhà, nhưng lò phản ứng và vỏ bọc lò chưa bị thiệt hại. Tuy nhiên, cơ quan an toàn hạt nhân của Nhật thừa nhận rằng một phần tâm lò phản ứng (chứa các thanh nhiên liệu) đã bị nóng chảy. TEPCO quyết định bơm nước biển vào lò, để tránh các thanh nhiên liệu bị nóng chảy hoàn toàn. Biện pháp tuyệt vọng này, xem như hy sinh các lò sắp được hưu trí, vì nước biến sẽ làm gỉ vật liệu nhanh chóng. Để đối phó với sự cố xảy ra đối với tâm lò phản ứng, cần tiến hành theo ba bước sau: làm ngưng hoạt động lò phản ứng (được thực hiện), làm lạnh lò, và ngăn không cho chất phóng xạ thoát ra ngoài. Với những gì đã xảy ra thì việc thực hiện ở bước thứ hai và thứ ba đều không thành công. TEPCO đã kêu gọi cơ quan nguyên tử quốc tế (IAEA) và chuyên gia Mỹ đem nước làm lạnh đặc biệt mà vẫn không có kết quả khả quan.

Vấn đề tương tự cũng xảy ra đối với lò phản ứng số 3 (780 MW) thuộc nhà máy Fukushima Daiichi. Và sự lo ngại này đã thực sự đến khi xảy ra hai vụ nổ tại lò phản ứng này trong ngày 14/3. Như ở lò số 1, hydro được sinh ra do tương tác với vỏ thanh nhiên liệu.  Zr (Zirconium) nóng trên 1200°C, với nước, tạo ZrO2, tỏa ra 6500 kj/kg Zr. Khối lượng H2 sinh ra trong lò nước sôi có thể gấp đôi so với lò áp lực! Các chuyên gia Nhật chưa cho biết số thanh nhiên liệu (nhiên liệu Mox có plutonium rất độc) bị nóng chảy và cách phân bố trong lò. Trong trường hợp thủng lò, nhiên liệu nóng chảy vì nhiệt độ rất cao (trên 2000° C- 2500°C) có thể làm vỏ bọc lò bị nứt, để phóng xạ lan ra ngoài. Hiện tượng này đã được Đại học California nghiên cứu từ năm 1985. Cũng như lò phản ứng số 1, vỏ bọc lò phản ứng số 3 hình như vẫn chưa bị ảnh hưởng quan trọng.

Tuy nhiên, mối lo ngại lớn nhất lại nằm ở lò phản ứng số 2 (780 MW) của nhà máy này.  Mực nước trong lò phản ứng đã xuống rất thấp, điều này làm tăng nguy cơ tâm lò phản ứng bị nóng chảy. Các thanh nhiên liệu dài 3,71 m không được nước che lấp trên 3 m! Thậm chí, sau vụ nổ ở lò phản ứng số 3, TEPCO đã lo ngại không còn khả năng làm lạnh cho lò số 2.

Ngày 15/3 đến lượt lò số 2 bị nổ! Đồng thời ở lò số 4 (780 MW), hồ (piscine) chứa các thanh nhiên liệu của tâm lò đã sử dụng bị cháy! Hai lò 5 (780 MW) và 6 (1100 MW) cũng đang có vấn đề vì độ nóng lên cao. Ngày 17/3 TEPCO buộc phải sử dụng trực thăng lớn để đổ nước biển pha với Acide borique xuống nhà máy. Acide borique có đặc tính hấp thụ nơtrôn để tránh phản ứng dây chuyền có thể xảy ra. Mức phóng xạ cao nên phi công không thể hạ xuống dưới 150 m. Dung tich của hồ là 2000 tấn nước và mỗi giờ cần 50 tấn.

Cuối cùng Tepco phải huy động hàng chục xe cứu hỏa, sử dụng vòi phun nước rất mạnh với hy vọng che ngập khối thanh nhiên liệu đang bốc sôi trong lòng hồ nước để không cho  phóng xạ thoát ra ngoài trời. Về lâu dài, chuyên gia Nhật Bản đã nghĩ đến kế hoạch xây dựng quan tài bằng bêtông (Sarcophage) để bao trùm các lò như ở Tchernobyl. Ở đây Sarcophage thứ nhất đã bị rạn nức nhiều nơi ngay từ lúc đầu.  Sarcophage thứ hai trị giá 1 tỷ đôla đang được xây cất và sẽ có hiệu lực chỉ trong vòng 100 năm mà thôi!

Tình hình hiện nay tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima vô cùng nguy hiểm. Không riêng gì lò số 3 mà cả nhà máy có thể xem như không thể điều khiển được nữa! Trong số đội ngũ 800 nhân viên phụ trách vận hành chỉ còn 50 người hy sinh tính mạng phải ở lại. Bức tường phóng xạ vô hình, không màu, không mùi đã cấm nhân viên chuyên môn vào nhà máy cứu chữa, trừ những cảm tử quân! Câu điện vào nhà, đem nước vào hồ, bình thường thì có gì khó khăn? Ai cũng thừa biết Nhật Bản giỏi nhất thế giới về con người máy (Robot) thế mà nhân viên đành bó tay, chứng kiến bất lực thảm cảnh điêu tàn.

Tất cả mọi tình huống đều có thể xảy ra, kể cả tình huống đáng lo sợ nhất là tâm lò phản ứng bị nóng chảy hoàn toàn, gây nổ lò phản ứng và đẩy bụi phóng xạ ra ngoài không gian. Cơ quan an toàn Pháp đặt mức độ nghiêm trọng của Fukushima lên số 6 trên thang đo INES (International Nuclear Event Scale) nguy hiểm hơn biến cố Three Mile Island ở Mỹ (28/3/1979) và sau thảm họa Tchernobyl (26/4/1986) với mức độ cao nhất, số 7. Cơ quan an toàn Nhật Bản xếp Fukushima vào mức độ số 4 (hôm nay mới lên 5) có lẽ để cho dư luận khỏi hoang mang? Dân chúng Nhật Bản, tuy có tinh thần kỷ luật đáng kính phục, nhưng họ bắt đầu lên tiếng chỉ trích chính phủ và TEPCO về cách quản trị tình hình với nhiều thông tin không chính xác? TEPCO đã nhiều lần bị chính phủ cảnh cáo và phạt nặng vì đã gian trá (200 báo cáo không đúng sự thật trong 20 năm!) và giấu giếm nhiều tài liệu tối quan trọng về an toàn.

Nguy cơ ô nhiễm phóng xạ đang là nỗi lo sợ lớn nhất hiện nay của Nhật Bản và các nước láng giềng. Sau vụ nổ ở lò phản ứng số 1, lượng phóng xạ đo được trong phòng điều khiển của lò phản ứng cao gấp 1000 lần so với mức bình thường. Mức phóng xạ ở khu lò số 3 ngày 12/3 đã lên đến 400 mSv/h! (1). Những “liquidateurs“ ở Tchernobyl, tử nạn một tháng sau thảm họa, đều hấp thụ hơn 6000 mSv/h! Về tiềm năng của chất phóng xạ, nên biết rằng tổng công suất 6 lò của nhà máy  Fukushima là 4680 MW, gần 5 lần lớn hơn công suất của lò (1000  MW) bị nổ ở Tchernobyl. Chất điều độ (modérateur) của lò Tchernobyl là graphite, dễ cháy, chứ không phải là nước như ở các lò Fukushima (Xin mời quý bạn xem bài RFI phỏng vấn tôi về Tchernobyl ngày 26/4/2006).

Tình hình đến hôm nay có thể tóm tắt như sau: 3 tâm lò bị nóng chảy (lò 1-70%,lò 2- 33%), 2 hỏa hoạn ở hồ chứa nhiên liệu, 5 vụ nổ hydro. Trong 5 lò, các thanh nhiên liệu đã sử dụng tiếp xúc trực tiếp với khí quyển. Số nhiên liệu tích trữ ở trong các hồ nước đang sôi bằng 4 lần số nhiên liệu trong các thùng lò. Một đường giây điện đã được nối vào nhà máy ngày 19/3 với mục đích phục hồi hệ thống làm lạnh. Nhà chức trách đã ra lệnh sơ tán hơn 200.000 dân cách 20 – 30 km xung quanh nhà máy điện hạt nhân. Dân ngoại quốc ớ Tokyo cũng hoang mang và bắt đầu rời kinh đô.

Ở khu vực nhà máy điện  Fukushima, nước biển, sữa, rau, hải sản đã bị ô nhiểm. Dân chúng còn ở đây đang ở trong tình trạng không đựơc ra ngoài, không có thức ăn, không có nước uống!  Ngay ở Tokio, nước cho trẻ con cũng bắt đầu làm dân chúng hết sức hoang mang.

Tùy hướng gió bay, một khi lên cao, làn mây phóng xạ có thể lan tràn rất xa, bay qua nhiều nước trên thế giới như làn mây Tchernobyl. Kamchatka (Nga) và  California (Mỹ)  đã có dấu vết bị nhiễm phóng xạ Iode I-131 và Césium Cs-137. Sản phẩm phân hạch Strontium Sr-90 thì khó phát hiện hơn. Thời gian phân hủy một nửa của các chất độc này là: Césium 137 (30 năm), Strontium 90 (28 năm), Iode 131 (8 ngày). Làn mây phóng xạ đầu tiên, chưa tai hại sức khỏe, đã đến Pháp hôm nay. Rồi đây sẽ còn nhiều làn mây khác!

Nếu có mưa trong các ngày tới thì tình hình càng thêm phức tạp, bởi chất phóng xạ sẽ theo mưa rơi xuống đất, gây ô nhiễm nguồn nước, sản xuất nông nghiệp. Ngay cả trong tình huống mong đợi nhất là các lò phản ứng được khống chế, sau khi tình trạng khẩn cấp qua đi, cần phải tiếp tục công tác khử nhiễm, ban bố lệnh cấm sử dụng và buôn bán thực phẩm được sản xuất ở địa phương này.

Hậu quả

Dư luận thế giới xôn xao lo sợ và những đoàn thể chống điên hạt nhân đang lên tiếng dữ dội. Cộng đồng Âu Châu (143 lò), Pháp, Ấn Độ, Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác đã ra lệnh kiểm soát chặt chẽ và củng cố tất cả các nhà máy điện hạt nhân để đối phó với mọi rủi ro tai biến. Cộng đồng Âu Châu đang muốn thống nhất các tiêu chuẩn an toàn.

Bà Angela Meken đã quyết định đóng cửa tạm thời 7 nhà máy điện hạt nhân của Đức  xây cất trước 1981,  tạm đình chỉ việc cho gia hạn kéo dài thời gian vận hành của  nhiều nhà máy khác và dần dần từ bỏ điện hạt nhân. Cũng như Vénézuéla, Thụy Sĩ cho hoãn lại các dự án xây cất nhà máy điện hạt nhân. Trung Quốc cũng ngưng cấp giấy phép làm những nhà máy điện hạt nhân mới.

Với những tai biến dồn dập, ngoài con số khủng khiếp tạm thời, trên 25.000 người tử nạn và mất tích. Nhật Bản đã mất trên 165 tỷ đôla, có ảnh hưởng quan trọng đến mức tăng trưởng kinh tế.

Thị trường chứng khoán thế giới trong những ngày qua rúng động như bị Tsunami: 67 tỷ đô của  65 công ty quốc tế về điện hạt nhân đã bay ra khói. Tepco – 57%, Toshiba -30%, Japan Steel Works -38%, Kepco – 23%, Areva -18%, EDF-10, 6%, RWE -8,6%… Ngược lại, giá trị những công nghiệp năng lượng tái tạo tăng lên bội phần.

Trên toàn cầu hiện nay có 450 lò điện hạt nhân đang vận hành. Tỷ lệ điện hạt nhân chỉ chiếm 15%, có nghĩa là việc thay thế điện hạt nhân trong bản tổng kết năng lượng (bilan énergétique) thế giới không phải là không có lời giải thỏa đáng.

Như ở Mỹ, sau biến cố thủy triều dầu mỏ, nhiều nước sẽ xét lại và sửa đổi luật lệ an toàn khắt khe hơn trước nhiều, làm tăng vọt giá điện. Dân chúng vùng California lo sợ cho 2 nhà máy Diablo Canyon (2 x 1100 MW) và San Onofre (2 x 1100 MW)  nếu có động đất lớn. Lý do khác làm giá điện tăng mạnh cũng vì các nước sẽ hết sức thận trọng trước khi cấp giấy phép cho gia hạn thời gian vận hành các lò từ 30 đến 40, 50 hay 60 năm (trường hợp Fessenheim 2 x 900 MW của EDF vận hành từ 1977 -1978). Nên nhớ rằng gia hạn một lò tốn hàng trăm triệu đôla và thùng lò cũng như vỏ bọc lò không thể đổi mới được. Mức an toàn càng tăng thì giá điện lại càng cao. Nói rằng giá thành kWh điện hạt nhân kinh tế là dối trá . Kinh phí dành cho công trình tháo gỡ một nhà máy điện hạt nhân có thể cao bằng hay cao hơn kinh phí đầu tư của nhà máy ấy! Ví dụ điển hình là ở Pháp, công trình tháo gở nhà máy Brennilis,(lò nước nặng 70 MW), cách Brest 60 km, (xây cất năm 1962 và được tháo gỡ từ năm 1985 mà nay vẫn chưa xong), đã tốn gần 650 triệu đôla, 20 lần cao hơn phí tổn ước lượng! Phí tổn này có thật sự nằm trong bài tính kinh tế về giá thành kWh không? Có công nghiệp nào  ác nghiệt mà thời gian và kinh phí tháo gở cao hơn thời gian và kinh phí xây cất nhà máy không?

Như tôi đã nhấn mạnh nhiều lần từ lâu, một tai biến lớn như Tchernobyl có thể làm lung lay hay sập đổ công nghiệp hạt nhân, tuy đồ sộ nhưng vô cùng mỏng manh.Vì biến cố Three Mile Island (tâm lò bị nóng chảy 50%) mà 30 năm nay Mỹ khớiông xây cất thêm một nhà máy điện hạt nhân nào cả.

Pháp

Nước Pháp, nhất nhì trên toàn cầu về số cơ sở nguyên tử, đang rất lo lắng và đặt nhiều câu hỏi về phương diện an toàn. Với 58 lò rải rác trong 19 nhà máy, tỷ lệ điện hạt nhân 78% cao nhất thế giới. Trung bình, mỗi người dân Pháp ở cách xa nhà máy điên hạt nhân tối đa chỉ 300 km. Đảng Xanh đã lên tiếng đề nghị chính phủ trưng cầu dân ý và đóng cửa ngay các nhà máy cũ hay ở vùng dễ bị động đất như Fessenheim (2 x 900 MW) và Tricastin (4 x 900 MW). Những nhà máy EDF trên nguyên tắc chỉ có thể chống cự lại với các trận động đất dưới 7° hay 8° Richter mà thôi. Về cách tính toán, EDF dựa trên trận động đất xưa nhất biết được trong vùng và tăng con số thêm một ít cho khoảng an toàn. Ví dụ nhà máy Fessenheim, EDF dựa trên trận động đất 6,2° Richter ở Bale năm 1356 và tăng thêm 0,5 thành 6,7. Gần Bordeaux, nhà máy Blayais (4 x 900 MW) suýt nữa bị nước tràn ngập trong trận bão lớn năm 1999.

Dân chúng ở vùng Paris không an tâm lắm vì nhà máy Nogent (2 x 1300 MW) chỉ cách kinh đô 120 km! Theo cơ quan an toàn hạt nhân Pháp, trong năm 2010, EDF đã phải đối phó với 1000 sự cố số 1 và 2 (trên thang đo INES)  xảy ra trong các nhà máy điện hạt nhân. Chính phủ đặt tin tưởng vào lò thế hệ thứ ba EPR-1600 MW (European Pressurized Reactor) đang xây cất ở Flamanville. Lò này cũng đang được xây cất ở Phần Lan nhưng bị trễ 3 năm trời, làm cho Areva mất hàng tỷ đôla. Lẽ cố nhiên, những lò thế hệ 3 như EPR, hết sức đắt tiền, an toàn hơn lò thế hệ 2, PWR hay BWR. Tuy nhiên lò thế hệ 3 nào (kể cả AP1000) cũng chỉ là một kiểu lò tiến hóa (évolutionnaire) vừa dựa trên kinh nghiệm quý báu của lò thế hệ 2, vừa được bổ sung với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, chứ không có tính cách cách mạng. Ví dụ, với các lò Fukushima sử dụng nguyên lý an toàn chủ động (Active Safety Features) cần đến nguồn điện cấp cứu Diesel cho hệ thống làm lạnh, các lò thế hệ 3 áp dụng nguyên lý an toàn thụ động. Trong tương lai, lò thế hệ 4 cũng không thể nào bảo đảm an toàn như có người mơ tưởng!

Việc mở cưả thị trường điện lực, các Công ty tư nhân, vì coi trọng vấn đề lợi nhuận hơn cả, nên kinh phí dành cho khâu tu bổ , kiểm tra  an tòan ngày càng kém. Trong đội ngủ 45.000 nhân viên chuyên môn phụ trách khai thác 58 lò của EDF, 25.000 người ngoài Công ty được thầu lại (sous-traitant) , làm sao an tâm? Năm 2006, chuyên gia Mỹ đã lưu ý Tepco về một số nguy biến có thể xẩy ra, đặc biệt vì sự cẩu thả ở  khâu bảo trì .

Cũng như ở Đức và nhiều nuớc khác, Pháp sẽ phải thay đổi chiến lược dài hạn về năng lượng và dần dần hạ thấp tỷ lệ điện hạt nhân. Nhiều chuyên gia chống điện hạt nhân đã tuyên bố rằng Pháp có thể dần dần bỏ điện hạt nhân trong vòng 25-30 năm nữa bằng cách tiết kiệm và tăng hiệu suất năng lượng (-50%) và triệt để sử dụng năng lượng tái tạo (+ 80%) và khí (+ 20%).

Việt Nam

Trong số 20 bài tôi viết (2)  từ năm 2003 với tất cả nhiệt tình dành cho quê hương, tôi đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên xây cất nhà máy điện hạt nhân vì nhiều lý do: an toàn, chuyên gia, nhân lực, kinh tế, tài chính, môi trường, rủi ro nguy hiểm, lưu trữ chất thải phóng xạ…Chính sách năng lượng của nước ta, cũng như của tất cả các nước trên thế giới, phải dựa trên việc triệt để tiết kiệm, sử dụng có hiệu lực năng lượng, khai thác tất cả các nguồn năng lượng tái tạo. Tổn thất năng lượng ở Việt Nam hiện nay có thể lên đến 35-40%! Theo tôi, không có con đường nào khác. Tại sao người ta đi ra mình lại đi vào? Làm một lò điên hạt nhân là kẹt cả môt thế kỉ (50 năm vận hành và 50 năm để tháo gở!)

Như tôi đã có dịp trình bày trong baì phỏng vấn của RFI về công trình thủy điện Sơn la các nhà máy điện hạt nhân tương lai ở Ninh Thuận cũng nằm trong vùng có thể bị động đất lớn. Những vệ tinh đã phát hiện vết nứt (faille) sông Hồng dài 1000 km từ Tây Tạng đến khu miền Bắc và về phía nam, dọc theo bờ biển nước ta. Vết nứt tuốt (coulissant) theo đường rảnh, trung bình 1 cm mỗi năm, có thể làm xê dịch từng cơn: sông, thung lũng, bãi phù sa… mỗi khi có động đất đáng kể. Đất nước ta eo hẹp, nhất là ở mìền Trung, nếu có biến cố xẩy ra, đồng bào ta sẽ phải làm nhà ở dưới biển hay sao?

Về khâu xử lý chất thải phóng xạ, hết sức nguy hiểm và đắt tiền, có cơ quan trách nhiệm bên nhà đã tuyên bố rằng sẽ không có vấn đề gì vì ta sẽ giao trọn cho công ty ngoại quốc bán lò đem chất thải về nước họ giải quyết lấy! Đâu phải dễ như thế. Thảm họa Fukushima diễn ra trong lúc những thanh nhiên liệu còn ở trong các lò hay trong các hồ chứa nước!

Tai biến Three Mile Island, Tcherrnobyl không vì rủi ro mà vì thiết kế không hòan bị và nhất là vì nhân viên thiếu trình độ hay kinh nghiệm. Chủ yếu rốt cuộc vẫn là ở con người. Với nhân lực và ngân sách eo hẹp của nước ta, tại sao lại cả gan xung phong vào một lĩnh vực đầy chông gai hiểm trở, xây dựng liên tíếp 8 lò từ 2014 đến 203O? Kinh phí khổng lồ, 30 tỷ đôla này, để dành cho năng lượng tái tạo và các linh vực ưu tiên khác như giáo dục, nghiên cứu, y tế , xã hội có ích lợi hơn cho đồng bào không?
Vì sự sống còn của dân tộc, của những thế hệ con cháu sau này, tôi thiết tha đề nghị Chính phủ Viet Nam rút lui có trật tự, cương quyết hủy bỏ chương trình điện hạt nhân ngay từ bây giờ, đúng thời, hợp lý, để tránh thảm họa cho đất nước.“Chúng ta không thừa hưởng đất đai của tổ tiên, chúng ta mượn tạm của con cháu” (Saint-Exupéry).

Theo tôi, làm điện hạt nhân là khiêu khích tạo hóa. Đến năm 2030, thì năng lượng tái tạo  đã trưởng thành và kinh tế từ lâu. Thế giới đang đi vào một con đường bế tắc, hết sức nguy hiểm. Điện hạt nhân không phải là lời giải cho bài toán năng lượng và hòa bình của nhân loại và đặc biệt cho các nước như ta. Các giới có thế lực tiếp tục lợi dụng hiện tượng thay đôi khí hậu để đề cao vai trò điện hạt nhân. Tuy nhiên, đổi CO2 với hạt nhân, thì chẳng khác nào như đổi Sida với dịch tả!

Ta không nên mặc cảm: không đi vào con đường điện hạt nhân không phải là ta “không có đầu óc thông minh”, ngược lại, tôi tin rằng người Việt Nam ta vốn không “nhẹ dạ, cả tin”, không “lên gân làm oai”, đủ tri thức để biết chọn con đường phát triển vững chắc, đồng thời tránh được “khuynh gia bại sản”, và hậu quả tai hại cho con cháu.

Thay lời kết luận

Fukushima có thể xem như tượng trưng cho chấn tâm (épicentre) của cuộc động đất khủng khiếp đang diễn ra trong công nghiệp điện hạt nhân. Tại sao Nhật  Bản lại cả gan xây cất 55 lò điện hạt nhân, cạnh bờ biển,  trên một mảnh đất eo hẹp đầy nguy biến? Hình ảnh điêu tàn của thảm kịch Hirochima và Nagasaki đã lu mờ trong kí ức của các nhà lãnh đạo chính trị và khoa học của đất nước này hay sao? Chúng ta nghĩ gì khi nghe Thị trưởng Tokyo tuyên bố rằng thảm họa Fukushima là một sự trừng phạt của Thượng Đế? Những vụ nổ liên tíếp ở nhà máy, tâm lò nóng chảy, vỏ lò rạn nứt, gây ra lỗi lầm không thể vãn hồi, không thể đảo ngược được. Theo nữ văn sĩ Biélorusse, Svetlana Alexievitch, trong một bài phỏng vấn của báo Libération ngày 20/3: “Cái chết vô hình đã thắm dần vào máu và thân thể người dân đất Nhật. Chúng ta đã trả một giá quá đắt cho sự tiến triển khoa học. Công nghệ cao siêu chỉ để phục vụ cho sự yếu đuối con người. Nhân loại đang giẩm chân trên con đường tự hủy diệt. Rất tiếc rằng người ta không biết rút kinh nghiệm của bài học Tchernobyl!“

Trước tai biến này, Viện sĩ Anatoli Alexandrov đã giám quả quyết rằng những nhà máy của Liên Xô có thể được xây dựng ngay tại Place Rouge vì hết sức an tòan! Sergueï Kirenko của Rosatom (Nga) mới đây, đã tuyên bố rằng họ sẽ bán cho Viet Nam và Indonésie những nhà máy điện hạt nhân lưu động ở ngoài khơi, vừa rẻ tiền, vừa an tòan!  Có ai xung phong sống cạnh những Híroshima trôi nỗi này bên bờ đại dương không?

Một chuyên gia hàng đầu về lò hạt nhân của Mỹ, Giáo Sư Arnold Gundersen, đã tuyên bố rằng hiện nay không nên xây cất thêm một nhà máy điện hạt nhân nào khác trên thế giới, cần phải đợi cho đến lúc các chính phủ lượng định lại mức độ nguy hiểm tối đa như thế nào . Lẽ cố nhiên, tôi ủng hộ lập trường này.

Những cường quốc phải thay đổi cách nhìn và cách sống. Các giới có thế lực (lobby) tiếp tục muốn duy trì công nghiệp điện hạt nhân, không những đã lỗi thời, mà còn vô cùng tai hại cho hàng trăm thế hệ con cháu sau này.

Các nhà khoa học và chính trị gia cần có thái độ khiêm tốn hơn nữa trước sức mạnh mênh mông của tạo hóa. Mọi tầng lớp dân chúng đều có quyền cho ý kiến trước khi nhà chức trách thực hiện những dự án quan trọng hay áp dụng những biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của cá nhân họ và của đất nước. Tại sao không tổ chức cuộc trưng cầu dân ý ở khắp nơi? Nước Ý sẽ bắt đầu trong tháng sáu này.

Các công ty quốc tế hạt nhân không thể cứ thản nhiên xem đồng đôla quý hơn môi trường và sinh mạng con người! Đã đến lúc cần nói lên sự thật thay vì dối trá với dân chúng!

Nhắc lại thảm họa Hiroshima và Nagasaki, Kenzaburô Oé, Nobel văn chương Nhật Bản 1994, trong một bài phỏng vấn của báo Le Monde ngày 17/3 diễn tả tâm trạng như sau:“Lịch sử Nhật Bản đang đi vào một giai đoạn mới và một lần nữa chúng ta bị những nạn nhân hạt nhân nhìn ngó, những người đã tỏ ra hết sức can đảm trong nỗi đau thương. Người Nhật, đã có kinh nghiệm lửa nguyên tử, không được nghĩ đến năng lượng hạt nhân bằng khả năng sản xuất công nghệ“.

Ai mà không động lòng rưng nước mắt khi nhìn thấy dân chúng Nhật Bản quằn quại đau khổ như thế? Ai không kính phục hàng chục, hàng trăm người đang hy sinh tính mạng để cho làn mây phóng xạ khỏi rải chất độc trên khắp trái đất?

Cũng như Tchernobyl, Fukushima đang cảnh cáo nhân lọai. Tiếng nổ long trời lở đất và sóng thần khủng khiếp ở xứ hoa đào xấu số này, rồi đây, sẽ chận đứng sự bành trướng của công nghiệp điện hạt nhân trên thế giới. Tôi hy vọng rằng nó sẽ làm lay chuyển lương tâm của những nhà khoa học hay chính trị gia, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với nhân loại nói chung và đối với dân với nước của họ nói riêng.

Nguyễn Khắc Nhẫn

Nguyên Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris,

GS Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble,

GS Trường Đại học Bách khoa Grenoble.

(1) Sievert (Sv): liều tương đương phóng xạ dùng để đo tác động sinh vật trên cơ thể. Đó là một đơn vị đề phòng phóng xạ.

1 Sv (Sievert) = 100 rem (Tchernobyl: 800-1600 rems)

(1 Sv = 1000 mSv) (chiếu phổi: 0.1 rem)

(2) www.vietsciences, caodangdienhoc, ugvf, tailieu.tapchithoidai, diendan.org

Đọc thêm:

Sự kiêu ngạo của khoa học

Nhà vật lý Torahiko Terada viết năm 1934: “Con người càng văn minh, thì cái vòng bạo lực của thiên nhiên ngày càng lớn”. Gần 67 năm sau, những từ mà ông từng viết trở nên chính xác hơn bao giờ hơn.

Con người ngày càng trở nên kiêu ngạo, tin là họ đã chinh phục được thiên nhiên. Chúng ta xây những công trình lớn hơn, vĩ đại hơn. Các nhà khoa học và kỹ thuật tin rằng họ làm như vậy để đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhưng họ đã quên mất trách nhiệm lớn hơn đối với xã hội của họ, mà chỉ nhấn mạnh vào những khía cạnh tích cực của nỗ lực đó. Thảm họa ở Fukushima Daiichi thể hiện rõ hiện tượng này.

Dù động đất ở Nhật là chuyện thường xuyên, và nước Nhật được mô tả là “quốc gia nằm trên miếng đậu phụ”, nước Nhật đã xây dựng 54 lò phản ứng hạt nhân dọc bờ biển, đối mặt với nguy cơ bị sóng thần tấn công cực lớn. Đáng lý chúng ta cần phải nghĩ tới khả năng siêu động đất sẽ xảy ra, và nếu các nhà máy không thể chịu đựng được mức động đất đó, thì đáng lý không được phép xây dựng các nhà máy đó. Ngoài ra, hệ thống điện giúp hệ thống làm lạnh hoạt động đã chết cứng cho thấy sai sót trong thiết kế là quá lớn. Bơm nước biển để làm nguội là giải pháp trong tình thế tuyệt vọng. Một kịch bản thất bại liên hoàn là điều có thể đoán trước.

Cách nay vài năm, mức tiêu thụ điện ở Nhật vào những ngày nghỉ hè khi mọi người về thăm quê hương ở mức mà ngay cả khi tất cả các nhà máy điện hạt nhân dừng hoạt động, vẫn có đủ điện cho tất cả. Nhưng ngày nay, năng lượng hạt nhân đã trở thành một phần không thể thiếu trong cả đời sống công nghiệp và sinh hoạt hàng ngày. Việc sử dụng năng lượng quá mức đã trở thành một phần tính cách của chúng ta. Đó lại là hiện tượng mà chúng ta không còn suy nghĩ nhiều tới nó nữa.

Nhật Bản đã đạt tới trình độ cực kỳ cao nhờ khoa học và công nghệ, nhưng chúng ta không thể phủ nhận rằng nó đã khiến chúng ta ngạo nghễ, cướp đi từ chúng ta khả năng tưởng tượng và phỏng đoán về thảm họa. Chúng ta đã sụp bẫy, sự văn minh đã khiến chúng ta trở nên đờ đẫn

— SATORU IKEUCHI, nhà thiên văn học tại Đại học chuyên đào tạo tiến sỹ các ngành học cao cấp (Graduate University for Advanced Studies, Sokendai )

P.S: Với rất nhiều sự kiện mà mình chứng kiến, có rất nhiều thứ mà sự hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, tuổi đời không cho phép mình đưa ra kết luận. Đa phần trong những trường hợp đấy, chỉ còn biết dựa vào ý kiến các chuyên gia đầu ngành…

Tin ai? Ai tin?

Sử dụng hình ảnh trẻ em trên báo chí

Việc sử dụng hình ảnh trẻ em trên báo chí ra sao luôn có tiêu chuẩn quy định nghiêm ngặt, và những người làm nghề chuyên nghiệp luôn luôn được yêu cầu phải suy nghĩ thật kỹ trước khi đưa hình ảnh, tên tuổi, thân nhân của các em lên báo.

Yêu cầu đó lại càng được nhấn mạnh hơn khi các em còn quá nhỏ, chưa đủ khả năng để có những phản ứng, hay đưa ra những yêu cầu người khác như những người trưởng thành trong xã hội.

Các tổ chức truyền thông cần xem những hành vi vi phạm quyền trẻ em và các vấn đề liên quan đến an toàn của trẻ em như: thông tin cá nhân, an ninh, y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội, và tất cả các hình thức bóc lột trẻ em cũng quan trọng như những các câu hỏi đặt ra trong các cuộc điều tra và tranh luận công chúng.

Trẻ em có quyền tuyệt đối bảo mật thông tin cá nhân, các trường hợp ngoại lệ duy nhất đã được nêu lên rõ ràng trong các nguyên tắc này.

Các nhà báo và các chuyên gia truyền thông có nhiệm vụ duy trì tiêu chuẩn đạo đức và tính chuyên nghiệp cao nhất cũng như thúc đẩy việc phổ biến thông tin liên quan đến Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em và những hàm ý của công ước đối với việc thực hành tự do báo chí.

Hoạt động báo chí gắn liền với đời sống và phúc lợi của trẻ em phải luôn luôn được thực hiện cùng với sự đánh giá về tình trạng dễ bị tổn thương của trẻ em. Các nhà báo cùng với phương tiện truyền thông đại chúng cố gắng duy trì tiêu chuẩn đạo đức cao nhất trong việc đưa tin các vấn đề về trẻ em.

Đặc biệt, họ phải có trách nhiệm:

1. Phấn đấu đạt tiêu chuẩn tốt nhất về độ chính xác và độ nhạy cảm khi đưa tin về các vấn đề liên quan đến trẻ em.

2. Tránh thực hiện các chương trình và công bố những hình ảnh xâm phạm đến không gian riêng tư của trẻ hay thông tin gây tổn hại cho chúng.

3. Tránh trình bày theo khuôn mẫu và mang tính giật gân để tăng chất liệu báo chí liên quan đến trẻ em.

4. Xem xét kỹ những hậu quả xuất phát từ việc công bố bất kỳ tài liệu nào liên quan đến trẻ em và giảm thiểu những tác hại gây ra cho chúng.

5. Bảo vệ trẻ em khỏi việc bị theo dõi (bị nhiều người biết đến) hoặc bị nhận ra, trừ khi điều này được thực hiện vì lợi ích công chúng.

6. Cho trẻ em quyền tiếp cận với phương tiện truyền thông khi có thể, để các em có thể bày tỏ ý kiến của mình mà không bị ép buộc dưới bất cứ hình thức nào.

 7. Độc lập xác minh thông tin được trẻ em cung cấp em cũng như đảm bảo quá trình xác minh diễn ra không gây nguy hại cho trẻ.

 8. Tránh sử dụng các hình ảnh tính dục của trẻ em.

9. Sử dụng các phương pháp công bằng, cởi mở và thẳng thắn để có được hình ảnh của trẻ em và, nếu được, cần có sự đồng ý của các em hoặc người lớn có trách nhiệm, người giám hộ hoặc người chăm sóc các em.

10. Xác minh giấy ủy nhiệm của tổ chức bất kỳ muốn lên tiếng thay cho trẻ em hay đại diện cho lợi ích của trẻ em.

11. Không thanh toán tiền với trẻ em đối với các tài liệu liên quan đến phúc lợi của trẻ em hoặc cho cha mẹ hoặc người giám hộ, trừ khi nó vì lợi ích của trẻ.

Các nhà báo phải nghiêm túc kiểm tra các báo cáo đệ trình và các tuyên bố của Chính phủ về thực hiện Công ước LHQ về Quyền trẻ em ở nước mình. Phương tiện truyền thông không nên xem xét và viết tin bài tình trạng của trẻ em như là các sự kiện, mà phải liên tục tường thuật quá trình hoặc nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của các sự kiện này.

IFJ, Liên đoàn Nhà báo Quốc tế

Văn hóa Nhật

Chỉ trong nguy nan mới biết vàng thau. Sự bình tĩnh của người dân Nhật đang khiến cả thế giới ngả mũ thán phục.  Nếu như nước Nhật đang mất mát quá nhiều, thì điều được nhất, chính là việc chưa bao giờ tinh thần Nhật, văn hóa Nhật lại được mổ xẻ, phân tích và ca ngợi như hiện nay.

Rất nhiều các quốc gia châu Á, trong đó có Ấn Độ, đã được nghiên cứu và phân tích bởi các học giả Tây phương. Nhiều quan điểm được chia sẻ. Nhưng có 1 điều rõ: dù châu Á, trong đó có Ấn Độ, có nhiều điểm chung, chia sẻ nhiều giá trị châu Á với người Nhật, thì tính kỷ cương, kỷ luật tập thể, và tinh thần vì cộng đồng trong tình huống khẩn cấp là không có. Tính cách điển hình của một số dân tộc châu Á khác là thói quen truyền bá tin đồn gây sợ hãi và lo lắng cho người khác. Các quốc gia khác cũng có xu hướng mê tín hơn là phân tích logic.

Nếu chúng ta xếp hạng một xã hội phản ứng như thế nào trước một thảm họa, họ gắn kết như nào, thì rõ ràng, thế giới có thể cho Nhật Bản điểm A+.  Bạn có nhận thấy những tính cách mà người Nhật đang cho thế giới thấy không tồn tại ở bất kỳ một quốc gia hùng mạnh và rộng lớn nào khác không? Thế giới thấy tính cách khắc kỷ đó, nhưng với người Nhật, chuyện đó không có gì đặc biệt. Văn hóa Nhật bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: tài nguyên hạn chế (Chỉ bằng 1 bang California của Mỹ và 73% diện tích là núi đồi); Mọi thứ đều bé nhỏ. Vì vậy, cách sống hòa quyện cộng đồng là rất quan trọng. Không làm ồn, ảnh hưởng tới người khác. Nhưng cũng là nước giàu có, Nhật Bản có những quy định rất nghiêm khắc về hàng hóa tiêu dùng nên mọi thứ đều có giới hạn và đắt đỏ; Thiếu diện tích, không gian, mọi thứ đều tiện lợi, nhỏ gọn. Chủ nghĩa tiêu dùng tồn tại, nhưng người dân sẽ không mua quá nhiều vì không có chỗ để.

Người Nhật đã quen với thảm họa. Họ chuẩn bị sẵn sàng cho mọi thứ: Ăn những cục cơm mặn gói bằng tảo biển đã được chuẩn bị từ trước; Không ai phàn nàn. Văn hóa Nhật khuyến khích sự hợp tác và không thích hành vi tư lợi. Nhưng giá trị mà phương Tây tôn sùng như tính tự quyết, cá nhân là trên hết, độc lập, và chỉ có ta mới là “rốn của vũ trụ” đều không phải là giá trị Nhật.  Điều quan trọng nhất trong văn hóa Nhật là tập thể, chứ không phải cá nhân. 

Tính cách của dân tộc sẽ định hình số phận dân tộc đó. Người Mỹ nổi tiếng với sự sáng tạo, suy nghĩ độc lập nên đã đưa nước Mỹ lên hàng cường quốc. Tinh thần quả cảm của người Nhật sẽ giúp họ vượt qua những thời điểm khó khăn hiện nay. Họ sẽ fukutsu no seishin (Không bao giờ đầu hàng)!  Trong tình thế dường như bất khả kháng gồm động đất, sóng thần, hạt nhân, bão tuyết, lạnh giá, họ vẫn giữ được sự tự trọng, tự giác, lịch sự để cùng nhau vượt qua khó khăn. Trong những sự khó khăn nhất, họ vẫn giữ được phẩm chất mà loài người, dù dân tộc văn minh hay không cũng đều đặt lên hàng đầu. Họ đã mất mát nhiều, nhưng tinh thần, di sản văn hóa, và lòng tự trọng thì vẫn còn nguyên.  

Kiểm soát khủng hoảng cũng là một chức năng trong hành vi văn hóa. Trong khi xây dựng các tòa nhà chống động đất, đảm bảo độ an toàn của các con đập và nhà máy điện hạt nhân là quan trọng, thì cách ứng xử trật tự của cộng đồng trong tình huống căng thẳng lại càng vô cùng quan trọng. Các nhà lãnh đạo trên thế giới sau khi nhận thấy những lợi ích to lớn từ cách người Nhật ứng xử trong khủng hoảng, bắt đầu nghĩ tới việc làm thế nào để người dân nước mình cũng được như người Nhật, dù chỉ một phần nhỏ. Những nhà hoạch định chính sách cần phải thiết kế các kế hoạch lâu dài để làm thế nào xây dựng được văn hóa quốc gia như thế.

Bạn có thể nghĩ tới việc người Nhật tự sát rất nhiều, không chịu đẻ, dân số già, con gấu ngủ đông….Còn nhiều cách để nhìn một quốc gia…Bạn có thể mơ ước mình được sinh ra trong một xã hội văn minh…

Nhật Bản – Văn hóa tĩnh lặng

Chào các bạn,

Sự tỉnh táo và bình tĩnh của dân Nhật trước biến cố động đất và tsunami lớn nhất lịch sử nước Nhật là một biển hiện rõ ràng cho cả thế giới hiểu văn hóa tĩnh lặng là gì, và điều gì làm cho Nhật trở thành siêu cường.

Đây không phải là điều gì mới lạ. Tất cả các võ gia trong thiên hạ đã biết đến điều này cả ngàn năm nay. Muốn chiến thắng địch thủ thì tâm phải tĩnh lặng. Khi đánh nhau người ta đánh bằng đầu, tay chân chỉ là phụ họa. Một đầu óc tĩnh lặng luôn luôn tính toán thông minh và chính xác. Một đầu óc căng thẳng, giận dữ, buồn nản, kinh hãi… nói chung là xung động, thì không thể tính toán tốt.

Nếu các bạn xem đấu võ đài. Thông thường thì chưa đấu bạn đã đoán được khá chính xác là ai thắng ai thua, chỉ bằng nhìn vào mắt và dáng điệu của người đó—tĩnh lặng và tự tin hay hùng hổ và thiếu tự tin. Nếu không nhận ra khi chưa đấu, có thể sau một hồi đấu điều đó sẽ lộ ra rất rõ trong mắt và trong tay chân. Và đọc Đông Châu Liệt Quốc hay Tam Quốc Chí các bạn thấy các tướng ngày xưa chiếm thành bằng các biện pháp đọc nghe như trẻ con nhưng rất hiệu quả–chọc cho tướng trong thành nổi giận bằng cách cho binh sĩ ngày đêm chửi bới tướng trong thành và cả 5 đời gia tộc nhà hắn là hèn nhát như con rùa rút đầu, hay làm cho hắn căm phẩn bằng cách mang vợ con hắn ra giết trước thành… Trẻ con nhưng rất thường thắng, vì rất hiệu quả để làm cho trái tim chúng ta bị xung động.

Người ta nói đời là tranh đấu. Không hẳn là tranh đấu với địch thủ như võ sư, nhưng chính là tranh đấu với xung động của mình—giận dữ, buồn nản, tuyệt vọng, chán ngán, kiêu căng, sợ hãi, lạc lỏng… Và đã nói đến tranh đấu là ta nói đến quyền lực tối cao của trái tim tĩnh lặng.

Và ta không chỉ nói đến cá nhân ta. Một dân tộc có nhiều công dân tĩnh lặng là một dân tộc chiến thắng, hùng cường, vô địch.

Mỗi người chúng ta hàng ngày đối diện với thử thách bên ngoài—khó khăn công việc, thi cử, tiền bạc, bệnh hoạn, tình ái—và thử thách bên trong—lo sợ, giận dữ, băn khoăn. Nếu chúng ta tĩnh lặng chúng ta sẽ chiến thắng, sẽ thành công. Không nhất thiết là thắng mọi trận đụng độ, nhưng kết quả phải là toàn thắng cả cuộc chiến. We don’t necessarily win every battle, but we will win the war.

Và nếu quốc gia chúng ta có đại đa số công dân tĩnh lặng như thế, quốc gia chúng ta sẽ thành hùng cường.

Điều này chúng ta đã lập đi lập lại quá thường xuyên trên ĐCN. Quốc gia chỉ là những cá nhân họp lại mà thành. Quốc gia không thể tự chính nó tĩnh lặng, quốc gia chỉ tĩnh lặng khi đại đa số dân của quốc gia tĩnh lặng.

Trong cái họa có cái phước. Trong hiểm họa chết chóc của nước Nhật, chúng ta có bằng chứng trước mắt để chiêm nghiệm về đức bình tĩnh của dân tộc của một đại cường, và tự hỏi “Đâu là nhân đâu là quả?”–cường thịnh tạo ra tĩnh lặng, hay tĩnh lặng tạo ra cường thịnh?

Và tự hỏi thêm: Làm sao cho tôi tĩnh lặng? Làm sao cho dân tộc tôi tĩnh lặng?

Chúc các bạn một ngày yên tĩnh.

Mến,
Hoành

Link