Vĩ thanh về “Memorial”

Với sự hỗ trợ của Cảnh Toàn, sinh viên năm 3 của Khoa báo chí – ĐHXHNV, ĐHQGHCM, bản dịch bài điều tra dài 13 ngàn từ của Sherin Fink đã hoàn thành. Điều đặc biệt là tôi và Cảnh Toàn chưa từng gặp nhau, mà chỉ liên hệ qua email. Vì vậy, Viva Technology!

Bài phóng sự đọat giải Pulitzer danh giá đã khiến tôi rất thích thú ngay từ lần đọc đầu tiên, sau khi dịch, Cảnh Tòan cũng rất thích thú vì những chi tiết đặc tả trong bài viết, khiến nó giống như “kịch bản Hollywood”.

Sau đây là bài cuối cùng của lọat bài đó. Bài này không xuất hiện trên báo, mà chỉ có 1 phần nhỏ được đính kèm vào phần cuối cùng của lọat bài viết.

—–

Oscar Wilde (1854 – 1900), nhà văn, nhà thơ và nhà mỹ học nổi tiếng người Ireland đã từng nói: “Sự bất tuân, trong con mắt của bất kỳ ai đã từng đọc qua lịch sử, là đức hạnh đầu tiên của loài người. Thông qua sự bất tuân đó mà có tiến bộ…”

Sheri Fink
Tiến sỹ y khoa, bác sỹ, nhà báo Sheri Fink. Ảnh: The Guardian

Nhà báo Sheri Fink là bác sỹ và tiến sỹ y khoa, với nhiều kinh nghiệm làm việc trong các tổ chức cứu trợ nhân đạo quốc tế, các cơ quan chăm sóc y tế cộng đồng của chính phủ Mỹ và các trung tâm nhân quyền,đã đặt lên bàn vấn đề đang gây tranh cãi trong xã hội Mỹ.

Chăm sóc sức khỏe cho người dân, đảm bảo mỗi người dân đều được quan tâm  và chữa trị khi ốm đau là trách nhiệm của chính phủ. Đó là thời bình. Rồi khi thảm họa xảy đến (trong bối cảnh loài người đang ngày càng chứng kiến các thảm họa diễn ra với tần suất và sức mạnh cao hơn), thì các nhân viên y tế phải thực hiện sứ mệnh của họ như thế nào khi tài nguyên nhân lực, vật lực đều thiếu thốn.

Trong khi báo chí Mỹ nói ca ngợi nỗ lực của các nhân viên, lực lượng cứu hộ sau Katrina, Sheri Fink đã nhìn theo một cách khác vào vấn đề. Trong khi dư luận tỏ ra phẫn nộ khi các bác sỹ mà họ yêu quý bị bắt và bị điều tra vì tội giết người, Sheri Fink đã đi tìm câu trả lời “vì sao lại như vậy? chuyện gì đã xảy ra?”.  Tất cả chỉ để giúp trong tương lai, con người có thể giảm thiểu được hậu quả của thiên tai, “vì con người chúng ta xứng đáng được như vậy.”

Ngoài giải Pulitzer danh giá cho thể loại báo chí điều tra, lọat bài “Những sự lựa chọn chết người ở Trung tâm y khoa Memorial” còn đọat giải “Tác phẩm xuất sắc khi đưa sự kiện mang tính chấn thương” năm 2010 của Trung tâm báo chí và Chấn thương Dart thuộc Đại học Báo chí Colombia. 13 ngàn từ đã mô tả sự hỗn loạn sâu sắc đánh quị các bác sỹ, y tá và nhân viên bệnh viện khi họ chờ đợi trực thăng đến cứu trong 4 ngày trong điều kiện không khác gì thời chiến tranh khi cơn bão Katrina tấn công năm 2005.

Đâu là lằn ranh giới giữa những khái niệm đạo đức vốn đã rất lờ mờ? Hội đồng giám khảo đã mô tả tác phẩm có sức“ám ảnh khủng khiếp ” và “vừa toàn diện vừa kiềm chế.” Câu chuyện của Sheri thể hiện kiến thức sâu sắc của tác giả, sự bền bỉ đi đến cùng sự việc, quyết tâm kể câu chuyện ở mọi khía cạnh, và mọi tầng lớp.”

Trong báo chí, ít có thể loại nào khó hơn cách viết tường thuật tái hiện. Nếu bản thân nhà báo chứng kiến câu chuyện cũng đã đòi hỏi rất nhiều nỗ lực mới kể được câu chuyện xúc động. Nhưng nếu phải dựa vào những nhân chứng đang cố gắng nhớ lại câu chuyện đã xảy ra, kể về những diễn biến chưa từng được tiết, thì khó khăn với nhà báo còn lớn hơn gấp bội. Nhưng thách thức lớn nhất là khi nhà báo tìm các chi tiết để dựng lại câu chuyện; mà câu chuyện có thể chống lại mong muốn của những nhân vật chính – những người có thể đối mặt với pháp luật nếu sự thật được tiết lộ. Sheri đã mất hơn 2 năm cho bài viết, phỏng vấn hơn 140 người (trong đó nhiều người cô phỏng vấn nhiều lần), và thuyết phục mọi mọi nguồn tin đồng ý xuất hiện với đầy đủ tính danh trên bài báo –  điều khá hiếm hoi trong báo chí điều tra ngày nay.

Bài viết đã có tác động tức thì tới các nhà làm luật khi đăng tải trên trang web ProPublica và New York Times Sunday Magazine năm 2009, vào dịp kỷ niệm 4 năm thảm họa Katrina – 1 trong năm thảm họa kinh khủng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Viện Y tế – cơ quan cung cấp thông tin và tư vấn liên quan tới chính sách khoa học và y tế của Mỹ –  đang soạn thảo các hướng dẫn về cách đối phó với tình trạng thiếu các thiết bị cứu người trong trường hợp cấp cứu diện rộng. Họ đã đưa ra những gợi ý, đề xuất và xác nhận có ảnh hưởng từ bài báo.

Bruce Shapiro, Giám đốc điều hành của trung tâm Dart, hỏi Sheri: “Làm thế nào để chị có được sự tin tưởng của các bác sỹ, nhân viên y tế đang chịu tiếng là “vô đạo đức”, và là “thủ phạm của những vụ giết người” nói chuyện với chị?” Sherin nói: “Rất ít người muốn trở thành ác quỷ vì việc làm của mình. Nói chung, người ta đều tin vào mục đích của việc mình đã làm. Là một nhà báo, tôi cảm thấy rằng, nếu tôi đến với họ, sẵn sàng lắng nghe điều thật nhất – đó là cái chìa khóa chính. Tôi đã trải qua điều tương tự khi đưa tin ở Bosnia, khi tôi viết về sự kiện diệt chủng trong bệnh viện. Tôi phỏng vấn người ở hai chiến tuyến của cuộc xung đột. Nếu tôi sẵn lòng muốn nghe câu chuyện của họ, sẵn lòng lắng nghe sự thực, mọi người thường muốn chia sẻ. “

Theo Sheri đánh giá, câu chuyện ở Trung tâm Memorial quan trọng vì 1 số lý do: Những người ở bệnh viện (nhân viên y tế và bệnh nhân) không bao giờ nên phải đối mặt với những hoàn cảnh tương tự nữa. “Với tất cả khả năng có thể, chúng ta cần làm tốt hơn để hạn chế hoàn cảnh đưa con người vào những tình huống khó khăn, quyết định khó khăn và gây tranh cãi.” Ngoài ra, các bác sỹ, y tá, người dân khi biết một bác sỹ rất được tôn trọng đã bị bắt, họ thường tỏ ra lo lắng và muốn cải cách pháp lý. Họ muốn có thay đổi luật để không thể khởi tố hay kiện những người đã cố gắng làm điều tốt nhất trong tình huống xấu nhất. Người Mỹ đang thảo luận về một bộ chuẩn đạo đức y tế mới trong điều kiện thảm họa. “Tuy nhiên, những người Mỹ, những công dân bình thường, cần phải được tham gia để thảo luận nên thay đổi bộ chuẩn, và thay đổi thế nào. Câu chuyện đến đúng vào lúc phù hợp với thời điểm, khi nước Mỹ đang thảo luận về hệ thống y tế. Memorial có thể coi là 1 dạng điển cứu cho các vấn đề vĩ mô hơn về cách quản lý tài nguyên; tầm quan trọng của việc đầu tư chuẩn bị cho thảm họa trong hệ thống y tế.

Nước Mỹ nói riêng và loài người nói chung sẽ đối mặt với những thảm họa trong tương lai, sẽ còn nhiều bão tố, bệnh tật. Sẽ có lúc tài nguyên cạn kiệt, và có lúc, không may là chính quyền thất bại trong nỗ lực bảo vệ người dân, và nhân viên y tế rơi vào tình huống cực kỳ khó khăn. Vậy lý do chính là xem xét lại câu chuyện và cùng đặt câu hỏi thẳng thắn: “Ta đã học được bài học gì từ sự kiện đó”

Bài học của Katrina không phải chỉ cho nước Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà các tổ chức, cơ quan ở các nước phát triển đều có cái gọi là “Kế hoạch đối phó với thảm họa” (Crisis Management Plan). Trung tâm Y khoa Memorial đã có kế hoạch đối phó dầy hơn 200 trang đã được ban lãnh đạo bệnh viện thông qua. Nhưng tầm nhìn của những người thực hiện đã không tính tới các tình huống bất thường. Đó cũng là lý do người ta phải cập nhật và thay đổi kế hoạch này hàng năm cho phù hợp với tình hình.

Như Sheri đã nói: Vì con người xứng đáng có điều đó”. Đặt cộng đồng vào tất cả các quyết định và các dự định, và trở lại với gốc rễ của vấn đề là “phục vụ con người”.

KHỔNG LOAN

Phần 12: Sự lựa chọn chết người ở trung tâm y khoa Memorial

Tháng 3-2007, những thành viên trong ban bồi thẩm sẽ xem xét số phận của bác sỹ Pou đã tuyên thệ. Mùa xuân đó, họ bắt đầu gặp nhau mỗi tuần một lần tại địa điểm bí mật. Thông thường, những công tố viên sẽ tìm kiếm điểm luận tội, yêu cầu những nhân chứng có giá trị nhất đối chất và cam kết bảo vệ họ khỏi liên lụy để đổi lấy những thông tin quan trọng. Nhưng người trợ lí công tố viên Michael Morales, người nhận được rất nhiều thư chỉ trích mỗi ngày vì đã cố tình kết tội bác sỹ Pou, nói với tôi là anh và công tố viên Eddie Jordan của Orleans đã không thực sự “hào hứng” về việc luận tội trường hợp này. “Chúng tôi sẽ phải để mắt một chút tới bên bị”, anh nói, bởi vì vụ án của bác sỹ Pou không giống như vụ hình sự cáo buộc tội giết người bình thường. Vào cùng thời điểm đó, bởi vì một thẩm phán đã ký lệnh bắt giữ bà Pou và nhiều nhân chứng khác sẵn sàng đối chất, “Chúng tôi sẽ không trốn tránh trách nhiệm của mình và ỉm nó đi được.” Anh nói cá nhân anh không quan tâm đến hậu quả “kiểu này hay kiểu khác”.

Bác sĩ Frank Minyard ngày 6-8-2009 tại phòng làm việc ở New Orleans. NYT

Thay vì trình bày những bằng chứng với các thành viên hội thẩm và luận tội thường làm, anh nói, anh đã mời các vị đó cùng với các luật sư quận vào vai trò như các nhà điều tra và quyết định xem những bằng chứng nào họ muốn xem xét. Điều này đã không được tổng chưởng lý và nhân viên của mình chấp nhận. Foti nói với tôi, ông đã nhiều lần yêu cầu văn phòng luật sư trình bày tất cả bằng chứng và danh tính các chuyên gia.

Phiên điều trần của bồi thẩm đoàn diễn ra trong bí mật, khiến rất khó biết chính xác những thông tin các thành viên hội thẩm nghe được. Minyard nói với tôi, cuối cùng ông quyết định 4 bốn trong số 9 người chết trên tầng thứ 7 đã bị giết, bao gồm Emmett Everett và Rose Savoie. Cho đến nay, ông đã không bao giờ tiết lộ công khai kết luận trên. Ông cũng nói về bác sỹ Pou,”Tôi có một niềm tin mạnh mẽ rằng bà ấy đã không lên kế hoạch để giết bất cứ ai, nhưng mọi việc lại cho thấy có vẻ như bà đã làm điều đó.”

Bồi thẩm đoàn đã lắng nghe Minyard chứ không phải bất kỳ của chuyên gia pháp y của ông, cũng như không phải từ thành viên hai gia đình ở trên lầu của trung tâm LifeCare trong hầu hết thời điểm khó khăn; cũng không phải nhân viên điều tra của Sở Tư pháp đã làm việc với trường hợp này trong một năm và đã giúp thu thập 50.000 trang chứng cứ. Chỉ có 2 trong số các nhân chứng chính tại trung tâm LifeCare được đưa đến trước khi bồi thẩm đoàn bước vào phần cuối của quá trình xét xử. Bodu và Landry, những người bắt buộc phải làm chứng sau khi công tố viên đã quyết định không truy tố họ, đã công khai tỏ ra ủng hộ bác sỹ Pou.

Các hội thẩm viên từ quần chúng, chắc chắn là chỗ dựa vững chắc trong lòng của bác sỹ Pou. Bà có một trong những công ty quan hệ công chúng hàng đầu tại New Orleans làm đại diện.Thăm dò dư luận do văn phòng luật sư của bà thực hiện để đánh giá khả năng thắng của ban bồi thẩm cho thấy rất ít người dân New Orleans ủng hộ bản cáo trạng.

Bất kỳ thẩm phán nào đã bật radio hay TV, hoặc mở báo The Times-Picayune (của New Orleans), hoặc lướt web sẽ nghe tiếng trống biểu trưng cho sự ủng hộ của cộng đồng với bà. Gần như mỗi ngày, người dẫn chương trình trò chuyển nổi tiếng nhất trên radio tại New Orleans, Garland Robinette, lại cất giọng trầm của mình trên chương trình “Think Tank” của truyền hình WWL, tỏ giận dữ về “những điều đang xảy ra với ba người này khi cố gắng cứu những mạng sống khác”. Vào 17-7-2007, một đợt tuần hành ủng hộ để đánh dấu sự kiện lần đầu tiên câu chuyện bác sỹ Pou bị bắt trở thành chủ đề hàng đầu trong chương trình của Robinette và nhiều bản tin địa phương khác. Hàng trăm người tụ tập tại công viên thành phố. Các loa phát thẳng ý kiến của mình nhắm trực tiếp vào bồi thẩm đoàn, cảnh báo rằng các chuyên gia y tế, những người vốn đã bị ảnh hưởng lớn bởi Katrina, sẽ chạy biến khỏi Louisiana lũ lượt nếu có chuyện một bác sĩ đã bị truy tố sau khi phục vụ trong thảm họa.
Trong tuần diễn ra biểu tình, các thành viên hội thẩm dừng nghe bằng chứng. Văn phòng luật sư quận đã chuẩn bị bản án 10 tội chống lại bác sỹ Pou cho bồi thẩm đoàn xem xét. Một tội là giết người cấp độ 2 trong trường hợp của bệnh nhân Emmett Everett và 9 tội về âm mưu thấp hơn nhằm thực hiện giết người cấp độ 2, mỗi tội là một bệnh nhân trên tầng 7 của LifeCare.

Điều này có nghĩa rằng các thành viên hội thẩm đã được yêu cầu quyết định xem liệu những bằng chứng họ có được có đủ thuyết phục là bác sỹ Pou có “ý định cụ thể giết người” hay không. Đây là một phần của định nghĩa tại Louisiana về tội giết người cấp độ 2.
Ngày 24 – 7 – 2007, các hội thẩm viên đến Khu vực E của Tòa án hình sự Orleans, tòa nhà nơi mà Minyard đã trú ẩn khi bão Katrina đổ bộ. Thẩm phán Calvin Johnson đọc to các bản cáo trạng 10 tội danh. Tuy nhiên, bồi thẩm đoàn đã không truy tố Pou với bất kỳ tội danh nào.
4 năm sau Katrina, mùa hè lại đến với New Orleans, và cây tường vi đang nở rộ. Rodney Scott, bệnh nhân mà Ewing Cook đã có ý định giúp kết thúc cuộc đời, vẫn còn sống.

Scott vô cùng sung sướng khi được sống cùng gia đình. Là một cựu y tá, ông nói ông không biết có chuyện tiêm thuốc gây hôn mê dẫn đến chết người ở trung tâm Memorial hay không; nhưng nếu nó đã xảy ra, ông muốn biết các bác sĩ và y tá đã nghĩ gì lúc đó. ”Làm thế nào bạn có thể nói trợ tử là tốt hơn so với sơ tán”, ông hỏi tôi cách đây không lâu. ”Nếu họ có những dấu hiệu còn sống”, ông nói, ‘hãy cứ mang họ ra, và việc còn lại là của Chúa”.

Các cuộc tranh luận giữa các chuyên gia y tế về cách xử lý trong thiên tai được đẩy mạnh hơn, và bác sỹ Pou cùng câu chuyện của bà ở Trung tâm Memorial thường được đem ra bàn luận. Tại một cuộc họp với giám đốc điều hành bệnh viện và những nhà hoạch định thiên tai quốc gia một vài tháng trước ở Chicago, bác sỹ Pou đã không đề cập là bà đã tiêm thuốc cho bệnh nhân, mà chỉ nói rằng máy bay trực thăng đến chiều thứ 5, ngày 1-9, và ”chúng tôi đã có thể di tản phần còn lại”.

Bác sỹ Pou chiếu lên màn hình các bức ảnh bà bị bắt khi bà lập luận là cần bảo vệ cho những cho nhân viên y tế khỏi trách nhiệm dân sự và hình sự khi làm việc trong điều kiện thiên tai.

Trước khi bắt đầu phát biểu phần quan trọng, bác sỹ Pou đã tham gia vào ủy ban “các vấn đề luân lí và đạo đức’, bàn về những tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe có thể bị thay đổi trong điều kiện thảm họa. Có thời điểm, một trong những thành viên của ủy ban, Cha John F. Tuohey, Giám đốc khu vực Trung tâm dự phòng Chăm sóc y tế Đạo đức ở Portland, Oregon, nói có nguy hiểm khi đưa ra những quy tắc mà có thể từ chối hoặc không cho một số nhóm bệnh nhân tiếp cận tài nguyên có thể cứu sống tính mạng trong bệnh viện. Điều này có ngụ ý rằng nếu những người bên ngoài cộng đồng y học không biết rằng những luật lệ này là gì, hoặc là cảm thấy bị loại ra khỏi quá trình làm luật, hoặc không hiểu vì sao có người nhận được sự chăm sóc cần thiết còn những người khác thì không, thì lòng tin của họ vào những người đang chăm sóc tính mạng mình sẽ có nguy cơ bị giảm sút. “Điều đó cũng tồi tệ như các thiên tai,” ông nói, “thậm chí tồi tệ hơn là những người còn sống sót mà không tin tưởng nhau”.

Hết

SHERI FINK (Giải Pulitzer năm 2010)
CẢNH TOÀN – KHỔNG LOAN dịch

Phần 11: Sự lựa chọn chết người ở trung tâm y khoa Memorial

Bên cạnh chín bệnh nhân vẫn còn trên tầng LifeCare, nhóm cũng xem xét lại cái chết của 13 bệnh nhân của Memorial và LifeCare đã được nhà bệnh học của Memorial ghi lại trên hành lang tầng 2 và các nơi khác.

Trong số 13 người, có chín người cho kết quả dương tính với midazolam và bốn người cho kết quả dương tính với morphine. Các nhà điều tra phát hiện những bản kê thuốc với liều lớn morphine cho ba trong số họ. Trong đó có các toa thuốc ghi ngày thứ năm 1-9 và do bác sĩ Anna Pou ký.

Thi thể trong nhà nguyện trên tầng 2 của Trung tâm Memorial – Ảnh: Tony Carnes

Bất chấp ý kiến mạnh mẽ của Wetch và Baden rằng cái chết của các bệnh nhân trung tâm LifeCare là hậu quả của việc tiêm thuốc độc, Minyard muốn có thêm thông tin để có thể đưa ra quyết định. Ông đã gửi những báo cáo y khoa, kết quả khám tử thi và báo cáo độc dược đến ba chuyên gia khác nhau để có một kết luận độc lập.

Bác sĩ chuyên khoa về ung thư và chuyên gia chăm sóc giảm đau Frank Brescia kết luận: “Giết người”. Bác sĩ James Young, cựu trưởng điều tra viên của Ontario, Canada, sau này là chủ tịch Viện Khoa học hình sự Mỹ, kết luận: “Giết người”. “Tất cả bệnh nhân này đều đã cố gắng sống sót trong những ngày kinh hoàng trước đó, và mỗi bệnh nhân ở tầng lầu này đều phải chết trong thời gian chỉ có ba giờ rưỡi với độc dược trong cơ thể thì không còn là sự ngẫu nhiên nữa”.

Một chuyên gia nội khoa địa phương kết luận: trong khi các ghi chép y khoa và kết quả khám nghiệm tử thi của vài bệnh nhân hé lộ những vấn đề y học có thể dẫn đến cái chết của họ, thì phần lớn ghi chép về các bệnh nhân không thể hiện điều này. Trong báo cáo gửi tới Minyard, ông viết rằng đó là “chứng cứ” cho thấy Emmett Everett đang trong tình trạng sức khỏe ổn định và “không có chứng cứ rõ ràng cho thấy cái chết sắp đến gần”. (Luật sư của Pou lại cho rằng Everett hầu như chắc chắn chết vì chứng phình tim, chứ không phải do tình trạng sử dụng thuốc quá liều).

Minyard cho mời một số nhân viên hành chính LifeCare đến văn phòng để trao đổi. Câu chuyện của họ tập trung vào bác sĩ Anna Pou. Minyard chưa hề được gặp bác sĩ Pou, nhưng hai tháng sau khi bà bị bắt, ông đã thấy bà tự bào chữa cho mình và các y tá đồng nghiệp rất mạnh mẽ trên chương trình “60 phút”. Bà nói với Morley Safer: “Tôi muốn mọi người biết rằng tôi không phải là kẻ sát nhân. Tôi không tin vào cái chết êm ái”.

Sau câu chuyện “60 phút”, một vài đồng nghiệp lâu năm của Minyard đã hỏi ông tại sao ông lại điều tra việc này. Một ngày sau khi kênh CBS phát chương trình, Hội Y khoa Mỹ (AMA) phát một thông báo: “AMA rất tự hào về những thầy thuốc anh hùng và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe khác đã hi sinh và hoàn thành công việc giải quyết hậu quả cơn bão Katrina một cách xuất sắc”.

Minyard nói với tôi sau khi bác sĩ Pou xuất hiện trên truyền hình quốc gia, ông đã có thêm động lực để tìm gặp bà, để tán gẫu với bà khi uống cà phê và cố gắng “hiểu hơn về bà ấy”. Ông từng làm điều này trước đó với những người bị tố cáo là có tội. “Khoa học rất tuyệt vời, nhưng có một điểm bạn phải vượt lên trên khoa học; bạn phải đi bằng những cảm xúc tận lòng mình, cho dù bạn làm gì đi nữa”. Ông đã mời luật sư của bà Pou đưa bà tới thăm văn phòng.

Đối diện!

Bác sĩ Pou ngồi chéo với Minyard, “đó là một phụ nữ rất phụ nữ, một quý bà miền nam quyến rũ”. Trên bàn ông là cuốn Kinh thánh, trên tường treo hình thập giá và xung quanh là những tấm hình về thành phố quê hương của họ. Họ sớm nhận ra mình có nhiều bạn chung và đã nói chuyện về vài thành viên của đại gia đình theo Công giáo của bác sĩ Pou mà Minyard có quen biết rõ. Họ cùng nhớ về người cha quá cố của bác sĩ Pou, vốn là bác sĩ gia đình, trước đây đã rất tử tế với Minyard và nhiều lần giới thiệu bệnh nhân của mình đến chỗ Minyard khi ông mở phòng khám phụ sản.

Họ nói chuyện gần một giờ. Bác sĩ Pou nói bà đã cố gắng để làm dịu nỗi đau đang chịu đựng. Vì vị luật sư của bà đang ngồi kế bên, Minyard cẩn thận không đi trực tiếp vào vấn đề những gì bác sĩ Pou đã làm. Hoàn cảnh của Trung tâm Memorial mà bác sĩ Pou miêu tả đã khiến Minyard nhớ lại những ngày ông mắc kẹt ở tòa án trong cơn bão Katrina. Lúc đó thức ăn và nước uống quý giá biết bao. Quả thật không thể ngủ được khi tiếng súng vang vọng xung quanh.

Minyard nói với tôi trong thâm tâm ông ít thông cảm với Pou hơn so với những gì ông thể hiện cho bà thấy. Ông nói ông tin ít nhất ông đã cố gắng cứu sống Emmett Everett. Chắc chắn phải có cách để mang người đàn ông 173kg này xuống lầu. Nhưng một điều khác cũng khiến Minyard băn khoăn là những tài liệu có được cho thấy rất ít bệnh nhân lớn tuổi đã chết khi đang được điều trị giảm đau.

Minyard đã liên hệ với chuyên gia nổi tiếng về đạo đức y học ở Đại học Pennsylvania Arthur Caplan để có thêm lời khuyên. Caplan xem xét các tài liệu và kết luận tất cả chín bệnh nhân của Trung tâm LifeCare tại tầng 7 đã bị làm hôn mê đến chết, và cái cách tiêm thuốc như vậy “không phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của việc chăm sóc giảm đau tại Mỹ”. Những tiêu chuẩn này rất rõ ràng, Caplan viết, và cái chết của bệnh nhân không thể là mục đích của công việc điều trị của một bác sĩ.

Bất chấp những kết luận của tất cả chuyên gia về việc giết người, Minyard vẫn còn gặp khó khăn về nội dung trao đổi với bồi thẩm đoàn. Ông nhờ thêm một nhà nghiên cứu bệnh học là bác sĩ Steven Karch để tư vấn. Karch đã đặt cược cả sự nghiệp của mình khi lập luận liều thuốc tìm thấy trong tử thi có thể không liên quan gì đến liều lượng những loại thuốc này ở thời điểm trước khi người bệnh qua đời. Ông kết luận: “Thật vớ vẩn khi cố gắng xác định nguyên nhân của những cái chết mà tử thi đã nằm tại đó hơn 10 ngày trong cái nóng 380C”.

Điều tra viên nói nếu vụ việc ra tòa thì bên bị sẽ đưa những người như nhà nghiên cứu Karch ra để cung cấp thêm sự nghi ngờ hợp lý. “Chúng tôi sẽ thua vụ này – Minyard nói với tôi – Điều đó sẽ không tốt cho thành phố, cho công việc phục hồi thành phố. Đó là một bức tranh lớn hơn mà tôi cần suy xét chứ không chỉ là một chuyện khoa học cơ bản thuần túy”.

Minyard đau đớn. Ông nghĩ việc cố tước đoạt một mạng sống “là điều rất, rất xấu xa. Chỉ có Chúa mới biết khi nào bạn sắp qua đời”. Câu chuyện này đã ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống của Minyard, khiến ông nghĩ ngợi và giật mình tỉnh khỏi những giấc mơ lúc nửa đêm. Ông gọi cho các chuyên gia liên tục để tìm kiếm lời khuyên và sự ủng hộ.

SHERI FINK (Giải Pulitzer năm 2010) – CẢNH TOÀN – KHỔNG LOAN dịch

Còn tiếp

Phần 10: Sự lựa chọn chết người ở trung tâm y khoa Memorial

Minyard, bác sĩ sản phụ khoa 76 tuổi, là nhà điều tra luôn được tín nhiệm cao trong các cuộc bình chọn suốt 31 năm qua ở thành phố. Khi New Orleans lâm vào cảnh lụt lội, Minyard cho biết ông đã thoát khỏi xe hơi của mình bơi tới chỗ làm và bị mắc kẹt ở đó bốn ngày. Những ngày sau bão ông đã quá vất vả trong việc khám nghiệm và nhận diện hàng trăm tử thi.

Gia đình Emmett Everett ngày 4-8-2009. Vợ ông (thứ hai từ trái sang) phát biểu trên CNN: “Ai cho họ quyền thay mặt Chúa?” – Ảnh: NYT

Sau khi làm xong các xét nghiệm tử thi và đưa đi chôn cất, nhân viên Cơ quan Dịch vụ y khoa quốc gia (một phòng thí nghiệm tư nhân ở Pennsylvania) đã nhanh chóng tìm thấy morphine trong cơ thể chín người. Đó cũng chính là chín bệnh nhân mà các nhân viên LifeCare đã xác định là “nạn nhân tiềm năng”.

Văn phòng trưởng công tố đã thuê chuyên gia pháp y của tòa án là Cyril Wecht (người từng tham gia điều tra vụ ám sát John F.Kennedy và phiên tòa xét xử vụ sát nhân O.J.Simpson) để xem xét bằng chứng về cái chết của bốn bệnh nhân có báo cáo độc tố và các báo cáo y tế đầu tiên: Emmett Everett, Rose Savoie và hai bệnh nhân khác của LifeCare. Wecht kết luận: cả bốn người này đều bị sát hại bằng hành vi can thiệp của con người.

Vài tháng sau khi tiến hành phỏng vấn và thu thập chứng cứ, nhà điều tra tin rằng các bác sĩ và y tá đã tiêm thuốc vào hơn 24 bệnh nhân ở Memorial. Nhưng cần có những báo cáo y khoa để củng cố cho điều này. Theo nhà điều tra, các luật sư của Tenet nói phần lớn y bạ bệnh nhân của Memorial không thể tiếp cận. Cùng với lời khai của những nhân viên LifeCare và y bạ của bốn bệnh nhân ở tầng 7, nhân viên công tố bang đã nhận định Anna Pou, Cheri Landry và Lori Budo có liên quan nhiều nhất đến những cái chết đó.

Lúc 9 giờ tối 17-7-2006, gần một năm sau khi Katrina biến Memorial thành bãi đầm lầy, bác sĩ Pou về đến nhà và thấy đại diện của cơ quan an ninh mặc áo chống đạn, tay cầm vũ khí trước nhà mình. Họ nói có lệnh bắt giữ bà vì bốn tội danh giết người cấp độ 2.

Bác sĩ Pou lúc này vẫn còn mặc bộ đồ bác sĩ nhăn nheo từ ca phẫu thuật bà vừa tham gia. Biết mình là đối tượng của nhà điều tra nhưng bác sĩ Pou không hề nao núng, bà hỏi lại: “Thế còn những bệnh nhân của tôi?”. Một nhân viên an ninh gợi ý bà gọi cho đồng nghiệp và nhờ họ chăm sóc giúp. Bà được phép tắm rửa và thay quần áo, sau đó được đọc các quyền lợi của mình, bị còng tay rồi đưa đến nhà tù khu vực Orleans. Thời điểm ấy, cả Landry và Budo cũng bị bắt. Trên đường đi bác sĩ Pou thì thầm cầu nguyện…

Bác sĩ Pou đã bị tạm giam và trả tự do sau nửa đêm. Ngày hôm sau, tổng chưởng lý Foti mở cuộc họp báo được truyền trực tiếp trên CNN. Ông thông báo một số kết quả điều tra ban đầu về khả năng giết người bằng gây mê tại trung tâm Memorial: “Đây không phải là trợ tử – Foti nhấn mạnh – Đây đơn giản là giết người”.

Tại một cuộc họp báo sau ngày hôm đó, luật sư của bác sĩ Pou bảo cơn bão – chứ không phải bà – là thủ phạm của những vụ giết người. Ông cho biết thân chủ của ông vô tội và cáo buộc Foti, người đang tích cực tái ứng cử, đã tạo “dàn đồng ca” trên truyền thông về các vụ bắt giữ. Ông thông báo ý định sẽ mang kết quả điều tra riêng của ông đến trao cho luật sư của các công tố viên Orleans, những người có thẩm quyền sau khi các vụ bắt giữ được thực hiện, và sẽ mang vụ việc ra trước một bồi thẩm đoàn.

Trong quá trình điều tra của chính quyền, Carrie Everett, góa phụ của bệnh nhân Emmett Everett, xuất hiện trên CNN. Sau bão Katrina, bà mất hai tuần đi tìm chồng cho đến khi biết ông đã chết. Bà khởi kiện chống lại Tenet, LifeCare, Pou, Landry và Budo.

Bà Everett chất vấn: “Ai cho họ quyền làm thay công việc của Chúa? Ai cho họ quyền đó?’’.

Để truy tố được ai đó tội giết người tại Orleans thường cần phải có quyết định y khoa của điều tra viên xác nhận đã có chuyện giết người (tức một cái chết do hành động của người khác) mà không liên quan đến hành động sai lầm hoặc trách nhiệm pháp lý.

Điều tra viên Minyard đã sắp xếp cho Cyril Wecht cùng Michael Baden (một bác sĩ pháp y nổi tiếng) và Robert Middleberg (giám đốc phòng thí nghiệm độc tính, nơi xét nghiệm các mẫu khám nghiệm tử thi) thảo luận về những phát hiện độc tố tìm thấy. Văn phòng bị lũ lụt tàn phá của Minyard vẫn chưa được sửa chữa. Do đó, họ gặp nhau trong ba ngày tại trụ sở tạm của ông ở một nhà tang lễ bỏ trống.

Bản ghi chép cho thấy hơn một nửa trong số 41 bệnh nhân tại trung tâm Memorial đã được phân tích tại phòng thí nghiệm của Middleberg cho kết quả dương tính với morphine hoặc midazolam hoặc cả hai. Middleberg đã xử lý hàng ngàn trường hợp như thế trong sự nghiệp của mình, và nồng độ thuốc cao tụ lại một chỗ được tìm thấy trong rất nhiều bệnh nhân “như ngón tay cái bị sưng”, ông nói với tôi.

Cả nhóm đã xem xét trường hợp bệnh nhân 90 tuổi bị viêm phổi là bà Alice Hutzler, người mà y tá Gina Isbell của trung tâm LifeCare đã hứa sẽ chăm sóc. Morphine và midazolam đã được tìm thấy trong gan, não và mô cơ của bà. Nhưng theo biểu đồ có ghi chú cho đến đêm trước khi bà mất vào ngày 1-9, những thuốc này không hề được bác sĩ chỉ định trước. Bảng ghi chép trong suốt những buổi tối, các y tá của bà Hutzler không hề ghi lại bất cứ lời phàn nàn về sự đau đớn hay mệt lả để phải dùng thuốc cả!

Hutzler là một trong chín bệnh nhân LifeCare được tìm thấy trên tầng 7 có một hoặc cả hai loại thuốc trong cơ thể. Tất cả đã được thấy là còn sống vào sáng 1-9 và được một bác sĩ trung tâm Memorial ghi nhận đã qua đời vào buổi chiều đó.

“Tội giết người’’, Wecht đã viết trên một tờ giấy với tên của Hutzler trên đầu trang, gạch chân nó hai lần. “Tội giết người”, ông đã viết từ này kế bên tên của bảy trong số tám bệnh nhân khác ở tầng 7, bao gồm cả Emmett Everett, Wilda McManus và Rose Savoie. Bệnh nhân cuối cùng có hồ sơ chỉ định cô đã gần chết, ông đánh dấu chưa xác định. Baden nói ông nghĩ tất cả chín người đều đã bị giết.

Cả nhóm xem xét một trường hợp tử vong tại tầng 8 dành cho những bệnh nhân phải chăm sóc đặc biệt: Jannie Burgess là bệnh nhân hôn mê được Ewing Cook tìm thấy khi ông lên cầu thang trong cái nóng bức của ngày thứ tư 31-8. Biểu đồ y tế của Burgess cho thấy bà đã được tiêm 15mg morphine bảy lần, trong ngày thứ tư, giữa thời gian 2g10 và 3g35 tối theo lệnh miệng của Cook. Mức đó gấp bảy lần so với một liều thuốc giảm đau tối đa. Nhưng bởi vì bà đã được tiêm morphine và đang bị ung thư giai đoạn cuối, bà “không phải là một ca khỏe mạnh rõ ràng” – Wecht đã viết trong cuốn ghi chú của mình. Ông đánh dấu “chưa quyết định” về cái chết của bà.

SHERI FINK (Giải Pulitzer năm 2010) – CẢNH TOÀN – KHỔNG LOAN dịch

Còn tiếp

Phần 9: Sự lựa chọn chết người ở trung tâm y khoa Memorial

Thiele tiếp tục tiêm thêm cho vài bệnh nhân khác những mũi morphine pha midazolam với liều lượng mà anh cho là cao hơn nhiều so với những liều dành cho các bệnh nhân phải chăm sóc đặc biệt mà anh thường làm. Anh vừa giữ tay vừa trấn an họ: “Ra đi lúc này là thích hợp rồi!”.

Nhiều bệnh nhân thường chết chỉ trong vài phút sau khi tiêm thuốc. Nhưng người đàn ông Mỹ gốc Phi to lớn thì không.

Bệnh nhân cuối cùng được di tản khỏi Memorial ngày 1-9-2005 – Ảnh: NYT

Ông ấy há hốc miệng, hơi thở dồn dập và mọi người thậm chí có thể nghe thấy tiếng nấc hấp hối của ông. Thiele tăng liều lượng morphine. Anh bắt đầu cầu nguyện. Anh đặt tay lên trán người đàn ông trong khi Wynn và một y tá khác giữ tay bệnh nhân. Cùng nhau họ cầu kinh: “Mẹ Mary vĩnh hằng, nhiều phúc lành. Chúa đang ở đây với anh”. Họ lặp lại lời kinh của Chúa, họ cầu nguyện cho người đàn ông mau chết.

Nhưng bệnh nhân ấy vẫn còn thở và Wynn nói rằng cô và đồng nghiệp coi đó như điềm báo. “Chúa nói: Được thôi, nhưng ta chưa sẵn sàng để đón nhận ông ấy hoặc ông ấy cũng chưa sẵn sàng”. Wynn nhớ lại cảnh mọi người mang bệnh nhân này đi qua cửa phòng thiết bị để đến trực thăng. Thiele thì lại nhớ tình huống này nhưng khác một chút: “Chúng tôi đã dùng khăn quấn quanh mặt ông ấy cho đến khi ông ngừng thở”.

Thiele nói chỉ trong vòng chưa đầy một phút, người đàn ông đó đã chết và anh không thể chịu đựng thêm nữa. “Việc đó khiến từng dây thần kinh trong cơ thể tôi đau đớn”. Nhưng anh nói anh đã làm đúng. “Chúng tôi đã bị chính phủ bỏ rơi, chúng tôi bị Tenet bỏ rơi và rõ ràng là không ai đến để giúp chúng tôi chăm sóc những bệnh nhân này trong những phút cuối của họ. Tôi đã làm điều mà tôi cũng sẽ muốn nó đến với mình nếu tôi là bệnh nhân và họ là bác sĩ”.

Cả Thiele lẫn Wynn đều nhớ lại họ đã cùng bác sĩ Pou, một số y tá khác che phủ những xác chết và mang họ vào nhà nguyện. Thiele nói những người còn lại được trùm vải kín đặt ở hành lang và trong một căn phòng gần đó.

Thiele nói: “Mọi việc diễn ra trong sự tôn kính, không phải như cô nghĩ đâu”.

Rodney Scott, ngày 8-4-2009. Ông là người bệnh cuối cùng được di tản khỏi Memorial – Ảnh: NYT

Buổi chiều đó, nhà nghiên cứu bệnh tật và giám đốc phòng thí nghiệm trung tâm Memorial đi khắp bệnh viện, từng lầu một, xem xét từng nơi và bảo đảm không ai còn sống mà bị bỏ lại. Họ thấy bác sĩ Pou trên tầng 7 với một y tá. Bác sĩ Pou đang làm việc với một bệnh nhân được truyền dịch dường như khó có khả năng sống sót.

Giám đốc phòng thí nghiệm nói với nhà điều tra lúc đó bác sĩ Pou đã yêu cầu được giúp đỡ di chuyển bệnh nhân; ông thì lại nhớ chi tiết khác được ghi trong bảng hỏi cung: ông đề nghị giúp đỡ bác sĩ Pou di chuyển bệnh nhân nhưng bà không trả lời. Đến khi ông hỏi lại một lần nữa thì bà bảo cần phải nói chuyện với bác sĩ gây mê trước đã.

Bác sĩ phẫu thuật John Walsh nói với tôi ông đã ngồi trên chiếc ghế đá và quá mệt mỏi nên không thể di chuyển, giữa lúc đó bác sĩ Pou và nhà nghiên cứu bệnh học kia cùng đi xuống. Bà Pou mệt mỏi và chán chường, ngồi xuống cạnh ông. Ông hỏi: “Có gì xảy ra thế?”. Ông nói bà đã đề cập đến một bệnh nhân hay nhiều bệnh nhân, về cái chết và về một người hay một nhóm người nào đó đã chất vấn bà.

Bác sĩ Walsh và bác sĩ Pou quen biết nhau mới chỉ một năm, nhưng ông biết bà là người có lòng trắc ẩn và luôn hết mình vì bệnh nhân. Ông nhớ mình đã động viên bà Pou: “Tôi chắc chắn bà đã làm đúng!”.

Cả ngày hôm đó tàu và trực thăng đã đưa gần hết những người trú bão và bệnh nhân trong bệnh viện di tản. Khoảng 9 giờ tối, Rodney Scott, bệnh nhân béo phì được điều trị tích cực và đang phục hồi sau ca phẫu thuật và các cơn đau tim, cuối cùng cũng được khiêng đến đường bay. Nặng hơn 135kg và không thể tự đi được, Scott là bệnh nhân sống sót cuối cùng của bệnh viện rời khỏi đó. Ông đã cảm thấy được cứu!

Bốn người đàn ông xung quanh ông liên tục hét lớn: “Đẩy, đẩy đi!” và lăn chiếc ghế xoay của ông đến cửa trực thăng của đội bảo vệ bờ biển. Một y tá bị chèn vào cánh cửa trực thăng thâm tím vùng ngực.

Scott, Thiele và Wynn đã bay từ bệnh viện tới sân bay quốc tế Louis Armstrong New Orleans. Nơi đây, cuộc thử thách với họ lại tiếp tục. Hàng trăm bệnh nhân bị bỏ lại từ khắp vùng thảm họa, họ gặp đội quản lý thiên tai của bang đang cực kỳ thiếu thốn cả về nhân lực lẫn vật lực, đến nỗi người bệnh không được cung cấp một điều trị cơ bản nào. Nói về tình trạng này tại sân bay, Thiele kể với tôi ngay cả với những bệnh nhân anh đã tiêm thuốc mà ở đây thì “họ cũng không thể sống nổi!”.

Vào ngày chủ nhật 11-9-2005, 13 ngày sau khi cơn bão tấn công, các nhân viên tang lễ phát hiện 45 tử thi đang phân hủy bên trong trung tâm Memorial. Ngày tiếp theo, tổng chưởng lý bang Louisiana Charles Foti Jr mở cuộc điều tra về bệnh viện và những y tá liên quan trong cơn bão Katrina. Điện thoại của cơ quan tư pháp bang luôn có những tiếng chuông cùng lời cáo buộc từ phía những bệnh nhân bị bỏ lại hoặc bị tiêm thuốc trợ tử.

Trong số các hồi chuông gọi đến có cả luật sư trung tâm LifeCare, người đã chuyển đến thông tin: có chín trong số những bệnh nhân có thể đã bị những bác sĩ và y tá trung tâm Memorial tiêm những liều thuốc chết người.

Nhà điều tra của bang và liên bang đã phỏng vấn những nhân chứng của LifeCare và xuống bệnh viện tìm chứng cứ. Riêng các nhân viên của Foti đã yêu cầu nhà điều tra của khu vực Orleans, tiến sĩ Frank Minyard khám nghiệm tử thi và kiểm tra thuốc trong khoảng 100 tử thi tại hơn sáu bệnh viện và nhà điều dưỡng ở New Orleans.

SHERI FINK (Giải Pulitzer năm 2010)
CẢNH TOÀN – KHỔNG LOAN dịch

Còn tiếp