Mẹ của con

Bà Christine, mẹ của nhà sáng lập ra Wikileaks Julian Assange khi được hỏi đã lo ngại cho sự an nguy của con mình. Bà nói bà có cảm giác giống như các bà mẹ có con ra chiến trường. Việc con mình làm là nguy hiểm cho sự an toàn của nó. “Nhưng cùng lúc, tôi hạnh phúc vì con tôi đã làm điều mà nó tin. Chuyện con tôi nổi tiếng chả liên quan gì tới tôi”.

Bà đang điều hành một nhà hát múa rối ở Úc, và nghĩ con trai mình “rất dũng cảm”. “Tôi nghĩ tôi rất tôn trọng và khâm phục khả năng, kiến thức và lòng dũng cảm của nó khi đứng lên chống lại thế lực lớn. Điều làm tôi hạnh phúc khi làm mẹ chính là nhìn thấy con mình chiến đấu vì điều mà nó tin tượng, và làm điều nó mà nó yêu thích”.  Bản thân bà không sở hữu cái máy tính nào cả.

Một bà mẹ như vậy sẽ đẻ ra đứa con sống cuộc đời không vô ích. Sự ủng hộ, yêu thương, tin cậy, khích lệ, động viện vô bờ bến của người mẹ, người cha, đứa con sẽ không phải “sống mòn”.

“Dù bạn có đồng ý hay không với những gì Julian làm thì việc sống với niềm tin của mình và chiến đấu vì niềm tin đó là điều rất tốt” – bà nói.

Hậu trường truyền thông trong vụ Wikileaks “leaks”

John Kampfner, giám đốc điều hành trang web Index on Censorship (Chỉ số kiểm duyệt) nhắc các nhà báo về “sự thật”. “Tất cả các chính phủ đều có quyền chính danh bảo vệ an ninh quốc gia. Nhưng an ninh quốc gia là 1 lĩnh vực chính sách cần phải cụ thể, và phải bị theo dõi thật kỹ lưỡng. “Hầu hết các quy định bí mật của chúng ta đều được thiết kế để bảo vệ các chính trị gia và các quan chức khỏi rơi vào cảnh bị xấu hổ”.  Trong khi đó, Antony Loewenstein, nhà báo, tác giả của nhiều cuốn sách về blog cho rằng “Nhiệm vụ của một nhà báo thực sự không phải là giúp cho các quan chức hay chính phủ khỏi bị xấu hổ, mà điều tra các câu chuyện mà công chúng quan tâm. Sự minh bạch và giải trình là những gì WikiLeaks đem đến cho công chúng”.

Cả 5 tờ báo lớn trên thế giới đều đã được gửi trước thông tin, và kiểm tra để đánh giá “lợi ích của công chúng” trong việc đăng tải. Sau đó, họ cung cấp thêm “các giá trị gia tăng” thông qua việc các nhà báo đưa ra bối cảnh của thông tin, và các phân tích theo đói. Ngoài ra, họ cũng thực hiện công việc kiểm tra, đối chiếu, đưa thêm thông tin (và có những biên tập cần thiết).  Antony viết: “Điều quan trọng nhất, các tài liệu ngoại giao để lộ ra đã khiến (công chúng) hiểu làm ngoại giao cũng tương đương với đạo đức giả. Những người hoài nghi trong giới truyền thông, hay chính trường có thể đã biết, nhưng người dân bình thường cũng có quyền được biết rằng có một khoảng cách giữa chuyện nói trước công chúng, và ở hậu trường. Chúng ta cần phải có những hành động cần thiết cho phép công dần toàn cầu biết các chính phủ của họ đang thay mặt họ làm những gì”.

“Là nhà báo, chúng ta cần làm tất cả mọi việc để rọi sáng vào những góc tối tăm. Nhiệm vụ của chúng ta là khơi mở, và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự minh bạch”.
Antony Loewenstein viết tiếp: Cũng có những người, trong đó có cả các phóng viên, lập luận rằng các nhà báo không bao giờ nên vi phạm luật. Lần này thì tôi không đồng ý. Lịch sử báo chí Anh quốc được lập lên bởi những người vượt rào luật pháp một cách anh hùng. Ở khắp nơi trên thế giới, hàng ngàn các nhà báo dũng cảm đang vi phạm luật của nước họ mỗi ngày, vì họ tin rằng họ đang tác nghiệp vì lợi ích rộng lớn hơn của cộng đồng”.

Tờ The Guardian đã đưa ra lý do “vì “lợi ích của công chúng” để giải thích cho hành động của mình.  “Tất cả các tờ báo đều đã cảnh báo chính phủ Mỹ về kế hoạch đăng tải thông tin. Tất cả các quan chức chính phủ được biết về nội dung chúng tôi định đăng tải, đều không đưa ra tranh luận hay phản bác gì về tính chính xác của nội dung nói chung. Họ chỉ đưa ra một số nhận xét, lo ngại về một vài vấn đề cụ thể”.

Vụ WikiLeaks cho thấy, đã có lỗ hổng lớn trong cách mà các nhà nước bảo vệ bí mật của họ.  Tất cả mọi hàng rào đều có thể bị phá vỡ. Trong tương lai, bí mật duy nhất là thứ được nói ra.

Vì sao New York Times đăng tài liệu mật của Wikileaks?

Cuộc tranh luận lớn nhất ở Mỹ hiện nay là cân bằng giữa quyền tự do báo chí – niềm tự hào được tu chính án số 1 hiến pháp bảo vệ – với ảnh hưởng nguy hại đối với quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và các nước đối tác.

Đã có những kêu gọi của các nghị sĩ đưa Wikileaks vào danh sách “khủng bố” vì những tổn hại do tổ chức này có thể gây ra đối với chính quyền Mỹ. Bộ Tư pháp Mỹ nói đang ráo riết hoàn tất hồ sơ hình sự đối với vụ việc. Trong ngày 29-11, việc siết chặt quy trình tiếp cận thông tin được tiến hành trong một loạt cơ quan liên bang ở Mỹ.

Cùng với việc đưa thông tin vụ Wikileaks chiếm gần trọn trang nhất số đầu tuần, tờ New York Times của Mỹ có lá thư giải thích với bạn đọc về quyết định đưa tin của mình. Tờ báo cho biết đã loại bỏ các thông tin có thể gây nguy hại tới những người cung cấp thông tin hay ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Tờ báo cũng khẳng định trước khi đăng tải họ đã gửi chính quyền Obama những bức điện mà tờ báo dự kiến đăng tải và nghe phản hồi. Tờ báo cho biết họ đồng ý một số gợi ý của chính quyền chứ không phải tất cả.

“Điều quan trọng khi công khai những thông tin này là các bức điện cho thấy sự thật về việc chính quyền đưa ra những quyết định quan trọng nhất như thế nào, những quyết định đã gây tổn hại lớn cho đất nước cả về sinh mạng và tiền bạc” – tờ New York Times viết. Trên trang web, tổng thư ký tòa soạn Bill Keller đã trực tiếp trả lời một loạt chất vấn của bạn đọc về quyền đăng tải thông tin từ Wikileaks cũng như khả năng nguy hại mà việc công bố gây nên.

Tờ báo giải thích: “Dù việc công bố thông tin bất chấp sự phản đối của chính quyền có đáng sợ tới đâu, nhưng sẽ coi thường người dân Mỹ nếu cho rằng họ không có quyền được biết những gì đang được làm nhân danh họ”.

Mọi nghi vấn đều đang nhắm về anh chàng binh nhất Bradley Manning, chuyên viên phân tích thông tin tình báo tại căn cứ quân sự Mỹ ở Iraq. Manning bị bắt hồi đầu năm nay và bị kết tội liên quan tới vụ lộ thông tin mật đầu tiên trên Wikileaks.

Người ta phát hiện viên binh nhất 22 tuổi này ngày ngày mang chiếc đĩa nhạc có tiêu đề Lady Gaga vào căn cứ để rồi xóa nhạc và tải các thông tin mật vào đĩa. Trong đoạn chat với một hacker khác, Manning khoe “tiếp cận được với hệ thống mạng mật 14 giờ một ngày, bảy ngày một tuần suốt hơn tám tháng”.

Một trong những sai lầm của chính quyền Mỹ trước vụ 11-9-2001 là để lọt thông tin tình báo về khả năng Al Qaeda tấn công. Để sửa chữa sai lầm đó, chính quyền Mỹ cho kết nối hệ thống liên lạc từ các sứ quán, cơ quan ngoại giao với Siprnet, hệ thống mạng thông tin của quân đội Mỹ. Tổng cộng hơn 3 triệu quân nhân, nhân viên ngoại giao Mỹ có thể tiếp cận với hệ thống dữ liệu mật này. Nhiệm vụ bảo mật với từng ấy con người quả là thách thức quá tầm.

Vì sao báo Le Monde đăng các tài liệu Wikileaks? Thông tin với trách nhiệm của báo chí

Giải thích lý do đăng tải các tài liệu của Wikileaks, xã luận báo Le Monde viết: “Phần lớn các quốc gia đều giải mật các thư tín ngoại giao mà sau một số năm nhất định mới mở cửa các kho văn khố của mình.

Trong trường hợp các tài liệu Wikileaks này, việc giải mật lại diễn ra gần như ngay lập tức và được thực hiện ngoài ý muốn của quốc gia có liên quan. Rõ ràng là việc phổ biến các điện tín ngoại giao của một cường quốc, như Mỹ chẳng hạn, vốn nằm ở trung tâm của mọi chủ đề quan trọng của các quan hệ quốc tế.

Các cuộc trao đổi và thảo luận được giữ bí mật hoàn toàn, chúng chỉ được đưa ra công chúng sau 30-40 năm. Việc công bố sớm không thể không gây hại. đây chính là một khía cạnh trong việc làm của WikiLeaks mà chúng tôi tất yếu đã cân nhắc kỹ.

Nhưng từ khi khối lượng lớn tài liệu này đã được chuyển giao, dù là bất hợp pháp, đến WikiLeaks, có nguy cơ rơi vào tay công chúng bất kỳ lúc nào, thì báo Le Monde đã nhìn nhận mình có sứ mệnh phải biết được các tài liệu này, phân tích chúng theo nhãn quan báo chí và đưa chúng đến với những người đọc của mình.

Thông tin, bởi vậy, không có nghĩa là hành động không có trách nhiệm. Công khai hóa và sự cân nhắc không thể không tương thích với nhau – và đó là điều phân biệt chúng tôi với chiến lược cơ bản của Wikileaks.

Năm tờ báo đối tác đã làm việc trên cùng các tài liệu thô, mà tờ báo đi đầu là New York Times đã thông báo cho chính quyền Mỹ các điện tín mà tờ báo dự tính sử dụng, và đề nghị họ cho biết các mối bận tâm có thể có về vấn đề an ninh.

Năm tờ báo đã cùng làm việc chung, đã cẩn thận biên tập các tài liệu thô được sử dụng nhằm gạt bỏ những tên người cùng các chỉ báo mà việc phổ biến các thông tin này có thể gây phương hại cho họ.

Báo Le Monde cũng đã đề nghị chính quyền Mỹ trình bày quan điểm của họ trên báo của mình: chính vì thế chúng tôi cho đăng tải ý kiến của đại sứ Mỹ tại Pháp trong chuyên mục “Tranh luận”.

Cuối cùng, không phải ngẫu nhiên mà các tài liệu được công bố lại xuất phát từ Mỹ, đất nước tiên tiến nhất về công nghệ, và cũng có thể nói là xã hội công khai nhất. Do bản chất mở của mình, một cường quốc dân chủ dễ bị xâm nhập nhiều hơn so với một quốc gia khép kín hoặc mờ đục. Chính nước Mỹ đã làm nên cuộc cách mạng Internet, và chính đó cũng là đất nước có truyền thống “những người thổi còi”, tức “những người nổi còi báo động” của xã hội. Và Wikileaks biết rõ điều này hơn bất kỳ ai khác”.

(Tuổi Trẻ)

“Nhà văn không được coi trọng”

Tình cờ đọc được bài viết Vì sao nhà văn lại không được coi trọng? của tác giả Nguyễn Mạnh Hà trên phongdiep.net ngày 02/11/2010 (dẫn lại từ Tạp chí Văn hóa Nghệ An) mà thấy chạnh lòng cho cái danh xưng “nhà văn” ở ta hiện nay. Có lẽ với nhiều người đây chỉ là một “chuyện nhỏ” không đáng bàn nhưng với cá nhân tôi, tôi cho rằng nếu ngẫm kỹ lại sẽ thấy đằng sau cái thực trạng phủ phàng “nhà văn không được coi trọng” mà tác giả Nguyễn Mạnh Hà đề cập là một vấn đề rất lớn. Theo tôi, đó là vấn đề thuộc về “văn hóa ứng xử” của cả xã hội, cả cộng đồng chứ chẳng phải chuyện đùa. Vì rằng một dân tộc nổi tiếng là “sành văn chương”; một đất nước tự hào là “đất nước của thi ca” như Việt Nam ta mà người sáng tạo ra văn chương, ra thi ca lại không được coi trọng thì không thể không để tâm.

Trong bài viết của mình, tác giả Nguyễn Mạnh Hà có đưa ra 5 nguyên nhân để lý giải cho chuyện vì sao nhà văn không được coi trọng. Về cơ bản tôi đồng tình với những điều ấy. Có điều tôi xin mạn phép “lạm bàn” thêm một vài vấn đề cụ thể từ nguyên nhân thứ tư mà tác giả đã đề cập trong bài viết coi như là một sự chia sẻ nỗi trăn trở này của Nguyễn Mạnh Hà.

Đúng như Nguyễn Mạnh Hà nói, sở dĩ hiện nay nhà văn ở ta phần nhiều không được coi trọng chính là do “khái niệm nhà văn bị thâu gộp một cách quá đáng. Nhà văn được hiểu một cách chung chung là những người làm ra sản phẩm là tác phẩm văn học. Hễ là người sáng tạo thì đều được gọi là nhà văn. Đây chính là nguyên nhân để tất cả những người kể cả người có năng lực lẫn người thiếu năng lực đều được “ngồi chung một chiếu hội văn đàn” (Hồ Dzếnh)”. Điều này cho thấy: thứ nhất, bản chất của sáng tạo văn chương, văn chương là sản phẩm của tinh thần, tuân theo quy luật của cảm xúc và tình cảm, nên đặc điểm của nó là dễ dãi, bao dung; thứ hai, từ đấy nảy sinh mặt trái là không phân biệt được tài năng, tư chất của các nhà văn, không phân biệt được đâu là nhà văn với đâu là dưới nhà văn (lều văn, quán văn…). Ta hãy thử ghép một số tên tuổi như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Ngô Tất Tố, Nam Cao… bên cạnh những người làm thơ, làm văn chỉ quen với những lằn ranh đã có xem! Việc không phân biệt được tư chất, tài năng của những người cầm bút đã làm cho xã hội nảy sinh tâm lí xem thường nhà văn. Vì thế, dẫn đến thực trạng, nhiều người cầm bút đã bị “oan”, không thể sắp ngôi đổi chiếu, nhất là đối với những nhà văn đang sống. Điều này có căn nguyên sâu xa đó là nhà văn không ai chịu ai cả. Nói cách khác là nhà văn không “trọng nhau” (chữ “trọng nhau” Thụy Khuê dùng để ca ngợi những thành viên trong nhóm Sáng Tạo ở Miền Nam trước năm 1975). Vậy, điều gì cần đề cao ở nhà văn? Cái tài năng, tư chất thể hiện trong tác phẩm ấy là cái gì? Theo tôi điều quan trọng nhất đối với nhà văn đó là tư tưởng. Đã là người cầm bút thì phải có tư tưởng, đi kèm với tư tưởng là tài năng trong việc trình bày tư tưởng. (Nguyễn Mạnh Hà – Vì sao nhà văn lại không được coi trọng? – phongdiep.net cập nhật từ Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 02/11/2010)[1].

Từ vấn đề này, nhìn rộng ra nữa và nhất là soi chiếu vào mặt bằng chung về đội ngũ những người được gọi là “nhà văn” ở ta hiện nay, có thể nói, sở dĩ chuyện nhà văn không được coi trọng có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ chính bản thân của không ít người cầm bút. Cho nên, riêng ở điểm này theo tôi đành phải “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” thôi. Có thể thấy, ở ta hiện nay các “nhà văn” dạng này nhiều vô số kể. Và lực lượng chiếm đông đảo hơn cả chính là những “nhà văn” thuộc thế hệ 8X, 9X thậm chí là một vài người thuộc thế hệ 7X nữa. Bài viết này vì thế, tôi muốn đề cập đến đối tượng là một số “nhà văn” này. Ở đây tôi không phủ nhận cũng như không “quơ đũa cả nắm” (bởi trên thực tế vẫn có không ít các nhà văn được bạn bè, anh em rất nễ trọng và độc giả cũng rất mến mộ) nhưng nghiêm túc mà có rất nhiều người cầm bút hiện nay thật sự không xứng đáng được xã phội phong cho cái danh xưng “nhà văn” vốn rất cao quý này. Vấn đề này theo tôi, trước hết liên quan đến cách nghĩ cũng như quan niệm có phần hời hợt, dễ dãi của không ít các “nhà văn” trẻ hiện nay về vấn đề thiên chức của văn chương nghệ thuật nói chung đối với đời sống xã hội và con người. Cụ thể hơn, tôi cho rằng có không ít “nhà văn” trẻ hiện nay thật sự chưa có một suy nghĩ thấu đáo về vấn đề ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của một nhà văn so với các nhà văn tiền bối của văn học nước nhà trước đó. Xin đơn cử ra đây trường hợp nhà văn Nam Cao – một trong những nhà văn có những quan niệm rất đúng đắn, nghiêm túc và sâu sắc về ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của người viết văn nói chung, để chúng ta có cái nhìn so sánh với không ít các “nhà văn” trẻ hiện nay về vấn đề trên.

Trong tác phẩm Đời thừa, Nam Cao nói:“Sự cẩu thả trong bất cứ nghề nào cũng là sự bất lương. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Và hẳn chúng ta đều biết đây không phải là những lời nói suông hay nói cho có của Nam Cao mà những điều ông nói luôn đi đôi với việc ông làm. Những tác phẩm của ông trước năm 1945 như Chí Phèo, Lão Hạc, Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn… đã minh chứng rất rõ điều này. Và nếu ai đó đọc lại tác phẩm Đời thừa của Nam Cao tôi tin sẽ đồng tình với tôi là ở ta hiện nay hiếm có một nhà văn trẻ nào có được phẩm chất, có được những suy nghĩ sâu sắc và tràn đầy tinh thần trách nhiệm của người cầm bút như văn sĩ Hộ mà Nam Cao đã xây dựng trong tác phẩm. Điều này cho chúng ta thấy sở dĩ Nam Cao bất hủ là vì trước hết Nam Cao là một công dân trung thực trong cách nghĩ, trung thực trong cách sống và trung thực trong cách làm việc. Đây phải chăng chính là yếu tố trước tiên của cái ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của một nhà văn?

Nhìn lại một số “nhà văn” trẻ hiện nay, có thể thấy, gần đây có không ít người khi được dịp phát biểu trên báo chí nhân trường hợp tác phẩm bào đó của mình vừa xuất bản lại tỏ vẻ trịnh trọng và “giả bộ khiêm tốn” rằng: “Tôi viết văn trước hết, là cho chính mình”,“viết từ mình”,“viết để khám phá bản thân tôi”… hay thậm chí mới đây nhất có người lại bảo là “viết văn là… tự sát thương mình”[2] (nghe ghê quá!?). Vấn đề trên không biết bạn đọc có tin không chứ riêng cá nhân tôi, nhìn vào thực trạng các tác phẩm văn học được các không ít “nhà văn” trẻ cho “ra lò” ngày một ồ ạt và dễ dãi hiện nay thì tôi hoàn toàn tin vào những câu nói mà bề ngoài có vẻ như rất “khiêm tốn” trên của họ. Và nhất là mà qua những sáng tác của họ còn cho thấy cách họ hiểu về câu nói trên nhiều khi rất “máy móc” và thiếu thành thực. Bởi vì như mọi người đã biết thì trước 1945, theo nhiều nhà nghiên cứu thì nhà văn Nam Cao thường cũng lấy chính mình ra viết; Nam Cao trước hết cũng viết cho ông, thậm chí là lấy chính ông ra làm đề tài để viết vậy mà Nam Cao bất hủ với chúng ta. Trong khi đó khá nhiều “nhà văn” trẻ hiện nay cũng bảo rằng “trước hết là viết cho mình”, “viết về mình”, viết từ mình”… thế nhưng tác phẩm của họ ra đời phần nhiều chỉ gây nên sự… bất thường nếu không nói là… bất mãn đối với người đọc. Vì sao như vậy? Theo tôi là vì họ chẳng hiểu tới nơi tới chốn cách nói “viết về mình”, “viết cho mình”,“viết từ mình”… là như thế nào; thêm nữa vì sự trải nghiệm cuộc sống còn quá ít; năng lực tư duy và tầm nhìn khái quát về cuộc sống còn hạn chế nên khi đối diện với trang viết, các nhà văn trẻ hiện nay chẳng có gì ngoài cái lưng vốn là “mớ cô đơn, buồn đau” nhiều khi rất giả tạo của bản thân rồi cứ thế mà phơi bày hết lên trang viết; hoặc không thì đưa tất cả những “chuyện đời tư” của mình hay một vài người mình biết lên trang viết rồi lên gân, lên giọng bảo là tôi viết tác phẩm ấy là “tôi đang tự sát thương mình”, “viết cho thế hệ” của chúng tôi. Vì thế, đưa đến kết quả là “đứa con” tinh thần sinh ra trông èo uột và què quặt; “có đứa” sinh ra chưa kịp nhìn thấy mặt “cha mẹ” đã nhanh chóng tắt thở; lại cũng “có đứa”, “cha mẹ” cố gồng gánh bỏ tiền “thuê người tiêm thuốc trường sinh” hòng kéo dài thêm sự sống nhưng cuối cùng chỉ sau một thời gian ngắn nó cũng “trở về với cát bụi” mà không một ai đến đọc lời ai điếu.

Một vấn đề nữa, tuy là ngoài miệng các “nhà văn” trẻ bảo là “tôi viết cho mình”, “viết từ mình”… thế nhưng mới thấy hôm qua anh cho ra đời tác phẩm với đề tài về sex (để bán sách), về “nỗi cô đơn của những người trẻ ở các đô thị” nhưng khi nghe ai đó bảo rằng đề tài “nông dân”, “nông thôn”, “công nhân”, “thiếu nhi”… đang rất thiếu thì lập tức anh cũng “nhảy sang” và hâm hở “nhào vô”. Chưa hết, khi nhìn sang một thấy bạn đồng nghiệp nào đó có sách bán chạy về đề tài “trinh thám”, “kinh dị”… cũng làm cho anh cảm thấy “nóng mũi” rồi anh cũng lại hăng hái lao vào. Rõ ràng ngoài miệng thì anh nói rằng “viết cho mình”, “viết từ mình”… mà sao hình như thấy chuyện gì anh – “mình” cũng ôm đồm hết, chẳng lẽ anh – “mình” giỏi đến vậy sao, sao chuyện gì anh – “mình” cũng “bao sân” hết vậy? Trong khi đó, tài năng như Nam Cao mà gần như suốt sự nghiệp văn trước 1945 ông chỉ trung thành với đề tài đó là cái đói và miếng ăn của người nông dân mà ông và gia đình ông đã từng trải và từng chứng kiến; là cái đói và miếng ăn mà Nam Cao hay đặt chông chênh, cheo leo bên cạnh cái nhân cách, cái phẩm giá của những người trí thức, những thầy giáo, những nhà văn mà chính ông và bạn bè ông đã từng nếm trải. Quanh đi quẩn lại Nam Cao chỉ viết về cái đề tài ấy vậy mà chúng ta không thể nào không nhớ về ông – một trong những nhà văn xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 nói riêng và lịch sử văn học nước nhà nói chung.

Cho nên mới nói là nhà văn khi anh phát biểu, anh nói nghe rất hay nhưng thực tế ngẫm lại mới biết là anh có khi lại không hiểu thấu đáo những gì mình nói và nhất là anh không trung thực. Không trung thực với người đã đành, anh còn không trung thực với mình thì thử hỏi làm sao mà anh có thể thành công cho được, làm sao độc giả yêu quý anh cho được. Tác phẩm anh viết ra vì thế, (nói như Nam Cao)“toàn là những thứ vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi” thì làm sao độc giả họ coi trọng. Họ không coi trọng văn anh dẫn đến họ cũng không coi trọng anh cũng là lẽ tất yếu vậy.

Nói về ý thức trách nhiệm cũng như đạo đức nghề nghiệp của một nhà văn không thể không bàn đến suy nghĩ của họ về (vấn để tưởng chừng rất quen thuộc) cái thiên chức của văn chương nghệ thuật đối với xã hội và con người. Có thể nói, các “nhà văn” trẻ hiện nay, hiếm có một “nhà văn” nào có được suy nghĩ, một tư tưởng thật rõ ràng và sâu sắc về vấn đề trên như Nam Cao. Bởi vì nếu thật sự ý thức về cái thiên chức của văn chương các “nhà văn” trẻ đã không dễ dãi cho “ra lò” những tác phẩm “vô vị” và “nhạt phèo” đang bày la liệt trong các hiệu sách hiện nay. Trong khi đó đọc Nam Cao lại thấy ở ông một quan niệm, một suy nghĩ tưởng chừng rất “giản dị” nhưng cực kì nhân văn và sâu sắc, đó là: văn chương phải làm sao “nhân đạo hóa” con người. Chúng ta cùng đọc lại đoạn văn mà văn sĩ Hộ đang tự đối thoại với mình trong Đời thừa để thấy rõ hơn quan niệm trên của Nam Cao:

“Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu rất vị kỷ đi, nhưng hắn không thể bỏ lòng thương, có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái(…) Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh là kẻ biết giúp đỡ người khác trên chính đôi vai của mình.”

Còn đây là quan niệm của Hộ (cũng là của Nam Cao) về giá trị và chức năng “nhân đạo hóa” con người của một tác phẩm văn chương đích thực:

“Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”.

Có thể nói để tác phẩm văn chương đạt tới trình độ “nhân đạo hóa” con người thì những người sáng tạo ra nó nhất định phải là người không được phép hời hợt; không được phép chủ quan, khinh suất và nhất là không được phép cẩu thả trong cách nghĩ, cách tư duy cũng như là cách viết. Chúng ta thấy, một người sống, suy nghĩ và lao động nghệ thuật tầm cỡ như văn sĩ Hộ, văn sĩ Điền,… mà Nam Cao còn lên tiếng phê phán là những kẻ “khốn nạn”, những người sống kiếp “đời thừa” và “sống mòn”… mới biết tầm vóc và tâm thế của Nam Cao cao lớn và đáng kính đến dường nào. Các “nhà văn” trẻ hãy tự hỏi lại mình xem có mấy ai có được cái tâm thế và tầm vóc chưa mà cứ viết văn, văn viết sách ào ào đủ các loại? Thế mới nói vì sao Nam Cao mãi mãi là một tượng đài trong lịch sử văn học dân tộc; còn một số “nhà văn” trẻ hiện giờ tuy cũng là một cái tượng nhưng là cái tượng được làm bằng cát chỉ một cơn gió nhẹ, một trận mưa rào thì cái tượng cát ấy sẽ nhanh chóng sụp đổ.

Cuối cùng, nói về ý thức trách nhiệm cũng như đạo đức nghề nghiệp của một nhà văn thiết nghĩ cũng nên bàn một chút về lòng tự trọng nghề nghiệp của họ. Chúng ta thấy viết văn tầm cỡ như Nam Cao mà ông có khi còn chưa hài lòng, còn tự sỉ vả mình. Trong Đời thừa, Nam Cao viết: “Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách, hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn nạn”. Chỉ với bao nhiêu thôi cũng cho thấy Nam Cao rất đáng để mọi người nhất là những người viết văn hiện nay phải nghiêng mình bái phục. Không chỉ rất có trách nhiệm với trang viết mà ở Nam Cao còn sáng ngời một một phẩm chất cao quý của con người trong cuộc sống hàng ngày dù là ở cương vị nào. Điều này nếu so với một số “nhà văn” trẻ hiện nay thì phải nói là một trời một vực. Trong khi tác phẩm viết ra có khi còn nhạt hơn nước ốc thế nhưng lại không biết lượng sức mình. Thế nên, khi tác phẩm vừa hoàn thành đã tìm đủ mọi cách để xuất bản. Nếu nhà xuất bản không chịu in (vì không tin tưởng) thì chạy ngay đến một “nhà phê bình” hay một “nhà văn đàn anh” nào đó nào đó năn nỉ xin “vài ba chữ giới thiệu” với lời lẽ “tâng bốc lên tận mây xanh” ở đầu trang làm tin. Và sau khi in rồi nhưng tác phẩm không được người đọc chú ý lại tiếp tục vun tiền ra để “tiếp thị” rất rình rang. Tệ hơn nữa, khi truyện và sách của mình bị ai đó phê bình thì lập tức nhảy cẩng lên phản ứng lại với thái độ đầy thách thức và gay gắt (lẽ ra trong hoàn cảnh ấy một người có lòng tự trọng và khôn ngoan điều trước tiên là phải bình tâm ngồi lại tự vấn điều người ta phê bình mình mà rút kinh nghiệm mới phải). Lại cũng có người, sau khi viết được tác phẩm, bất ngờ được bạn đọc đánh giá cao thì ảo tưởng nghĩ rằng mình là “cái rốn của vũ trụ” này, đã là một “ngôi sao”, “một nghệ sĩ lớn” trên văn đàn… nên đâm ra chủ quan và dễ dãi với những “đứa con tinh thần” tiếp theo. Có thể nói, những điều trên ít nhiều đã cho thấy chính bản thân một số “nhà văn” trẻ hiện nay đã không biết tự coi trọng mình trước. Và đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội có cái nhìn thiếu thiện cảm và lâu dài làm cho cái danh xưng nhà văn không còn được coi trọng nữa.

***

Tóm lại, chuyện nhà văn không được coi trọng ở ta hiện nay mà tác giả Nguyễn Mạnh Hà nói là điều có thật và nếu nghiêm túc mà nói thì đây là chuyện rất đáng để mọi người quan tâm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thật buồn đau này, tuy nhiên, theo tôi nhìn ở góc độ người sáng tạo ra tác phẩm thì lỗi một phần là do chính bản thân các nhà văn. Vì anh viết văn, viết sách cho công chúng xem mà những suy nghĩ về nghề văn của anh lại quá hời hợt và dễ dãi; anh làm nghệ thuật với mục đích tô điểm cho đời mà chẳng có tư tưởng gì mới lạ, độc đáo; thêm nữa cái tâm thế và tài năng thì chỉ ở mức “làng nhàng” nhưng lại không biết khiêm tốn, không biết tự trọng thì thử hỏi cộng đồng và xã hội làm sao mà coi trọng cho được. Ví von một chút vấn đề này (theo cách nói của một nhà văn nọ) là:“Bản thân anh là muối mà anh không biết tự mặn thì người ta biết lấy gì để mà muối anh.”

Tác giả: Nguyễn Trọng Bình ( Vĩnh Long, 9/11/2010)

Link gốc: http://viet-studies.info/NguyenTrongBinh_ViSaoNenNoi.htm

(Dù là người thiên về các tác phẩm dạng non-fiction, mình cũng chia sẻ rất nhiều điều với tác giả).

Link này, cũng rất quan trọng và hay:

http://www.indexoncensorship.org/2010/11/hari-kunzru-turkey-european-writers-parliament/

Công việc của chính trị

Đăng lại bài trên Tia Sáng (Bộ Khoa học – Công nghệ) của tác giả Hoàng Hồng Minh

Đi một vòng thế giới, bạn sẽ thấy ra rằng người nước Pháp là những nhà vô địch về sử dụng thẻ trả tiền. Vào siêu thị, qua cửa trả vé đường cao tốc, thanh toán tiền đỗ xe… việc trả tiền tự động bằng thẻ trở thành đại trà. Có khi chỉ để trả mấy chục xu.

Bạn đi qua nước Đức, đa phần người ta rút tiền và tiêu tiền mặt.

Bạn đi qua nước Mỹ, đoàn ôtô rồng rắn chờ để trả tiền qua cầu, rất rẻ nhưng rất lâu.

Còn ở ta có khi lấy xích-lô chở tiền để đi mua nhà!

Người Pháp thông minh hơn chăng?

Câu chuyện là thế này.

Khi trả tiền bằng thẻ, có một khoản chi phí cho việc này.

Ở Đức, người dùng thẻ phải trả một phần cho khoản này. Chả ai dại gì mất tiền.

Còn ở Pháp, Nhà nước quy định người dùng thẻ không phải trả chi phí cho việc dùng thẻ, mà người bán phải chịu. Mà người trả tiền luôn luôn là Thượng đế!

Các cửa hàng nhỏ bán lẻ thì ngán chuyện dùng thẻ, bắt người ta phải mua từ mười Euro gì đó thì mới nhận trả bằng thẻ. Còn các cửa hàng lớn thì họ không chấp, 1 xu cũng xong. Và nếu chẳng may bạn đổi ý trả lại hàng thì họ quệt thẻ bạn và tiền của cửa hàng chảy ngược luôn vào tài khoản của bạn, có khi còn trước khi tiền bạn mua hàng chảy ra khỏi tài khoản bạn nữa!

Công việc của chính trị là vậy.

Không phải là săm soi, là lên lớp khản giọng, là cầm tay chỉ việc.

Mà là đưa ra những quyết sách hướng dòng chảy của đời sống sao cho thuận lợi cho toàn bộ cộng đồng.

Chính trị không làm việc đó, ai làm?

Hãy lấy câu chuyện cái xe máy hôm nay chẳng hạn, và xem vấn đề chính trị của nó ra sao.

Xe máy rất hợp với xứ ta: rẻ, cơ động, dễ sử dụng, chiếm ít không gian.

Ngược lại, xứ ta đô thị hóa nghẹt thở, phi quy hoạch, phi lộ trình, với toàn bộ tính bừa bãi ngông nghênh vô kỉ luật. Thành phố chỉ là cái chợ thật to để người ta chen chúc, đi ẩu, vứt rác, thải tiếng ồn.

Một chiếc xe máy nhỏ bình thường, trong trạng thái tốt, thải ra một lượng khí thải độc hại ô nhiễm gấp bốn lần một chiếc ôtô con trong trạng thái bình thường, theo đo lường của các nhà môi trường.

Vì sao? Rất đơn giản. Vì xe máy không có bộ lọc khí thải. Còn ôtô thì bắt buộc phải có.

Tiếng ồn cũng vậy, chắc phải hơn 4 lần so với một chiếc ôtô con.

Bây giờ đèn đỏ, bạn đứng đó, hãy nhân số lượng xe máy quanh bạn lên làm 4 lần, bạn có một mức ô nhiễm tương đương hàng trăm, hàng nghìn chiếc ôtô quanh bạn.

Xe pháo ở ta lại còn ở mức chất lượng bất chấp, hệ số ô nhiễm chắc phải cao gấp đôi gấp bốn thêm nữa, hoặc hơn cả thế.

Rồi tiếng ồn đinh tai.

Rồi còi pháo toe toét, rú ga để khoe chủ nhân ông, để thách đố xung quanh.

Hãy coi chừng nếu bạn ngạt thở té lăn luôn ra đó.

Cái sự tình này, nền chính trị có trách nhiệm phải tham gia mạnh mẽ.

Rộng lớn, đó là công việc phi tập trung hóa các đô thị lớn, tạo ra nhiều vùng trung tâm dân cư liên đới tương đối hoàn chỉnh về ăn ở, sinh hoạt, giao thông, hành chính, trường học, bệnh viện, giải trí. Các trung tâm này phải có chất lượng cao thì mới giãn được dân. Chất lượng thật cao đồng bộ là tốt nhất, kéo những tầng lớp khá giả hơn đi tiên phong vẫn dễ hơn.

Phải khoanh những vùng ven đô rộng lớn thành những khu rừng, công viên vĩ đại, lá phổi của người thành phố. Không có quyết sách chính trị, thành phố sẽ phát triển theo nguyên tắc bệnh ung thư tràn khắp, không một mảng trống nào có thể tồn tại lại được.

Rồi phải có hệ thống giao thông công cộng thật thuận lợi với nhiều ưu tiên, được Nhà nước bù lỗ cho các tuyến mới. Các phương tiện này phải chạy theo nguyên tắc sạch, dùng điện hoặc gas.

Rồi hệ thống đường xá chuẩn quy.

Đó mới là môi trường cho giao thông.

Còn bản thân các xe máy?

Phải có lộ trình với người sử dụng và các nhà sản xuất.

Ví dụ lên lộ trình đến 10 năm tới, xe máy phải có bộ lọc đạt độ chuẩn về khí thải, độ chuẩn về mức tiếng ồn mới được phép lưu hành. Cuộc đàm phán với các nhà sản xuất và phân phối xe máy đã phải bắt đầu ngay từ bây giờ.

Các xe máy, ôtô phải bị kiểm tra định kì và bất thường, và bị phạt hoặc cấm lưu thông khi độ ô nhiễm và độ ồn quá chuẩn.

Còi xe máy hoàn toàn có thể bị cấm trong thành phố.

Nhiều tuyến phố trung tâm chỉ cho đi bộ, hoặc thêm xe đạp.

Một số tuyến chỉ có người có địa chỉ nhà ở đó mới được phép chạy xe máy, chạy ôtô vào. Việc này thực hiện qua tem dán cho phép trên xe.

Chuyện xa xôi? Không có gì xa xôi cả.

Và ngay hôm nay đã có thể làm được ngay bao nhiêu việc.

Tỉ như sáng sớm ra người ta cần tập thể dục quanh các hồ, quảng trường công cộng.

Vậy thì hãy cấm sử dụng xe máy, ôtô tại các khu vực đó từ 5:00 giờ đến 6:30 sáng chẳng hạn.

Công việc của chính trị là ở ngay đó.

Chính trị là cái công việc đo đạc, nghe ngóng, suy tính các giải pháp rộng lớn cho đời sống công cộng, cho hằng ngày, và cho dài lâu.

Chính trị không thể bị tê liệt.

Và càng không thể bị nhầm việc.

“Ăn” theo bài trên Tia sáng:

Tự dưng hôm nay đi làm thấy 6 cái xe buýt xếp hàng trên một đoạn đường ngắn tủn. Hoảng vía. Nhìn thì phát hiện có 1 cái lô cột “bỗng dưng” vừa hiện ra. Dân tình túa ra như ong vỡ tổ, như kiến gặp mưa, leo lên vỉa hè, lách giữa các làn xe. Những chiếc xe đứng sát bên xe buýt, những bàn chân làm mồi ngon cho những chiếc bánh xe khổng lồ. Không hề có biển báo hướng dẫn cách đi mới cho người dân, không hề có cảnh sát giao thông đứng phân làn xe, và cũng không thấy anh gì không phải cảnh sát giao thông những vẫn dành thời gian tuýt còi cứu dân. Sáng nào cũng đi làm gian nan, khổ sở.

Công việc của chính trị là gì? Thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về cái lô cốt vừa mọc lên (và 1 cái bảng rất to ở ngay vị trí đó). Giải thích vì sao có cái lô cốt đó, khi nào thì nó hết, và người dân có thể lựa chọn những con đường nào khác để đi (trách nhiệm giải trình), và có cảnh sát giao thông ra đó đứng.

Nhiều khi đứng không để làm gì hết (vì ai có thể làm gì khi  có quá đông người lưu thông?), nhưng dân tình sẽ nghĩ rằng “à, mình cũng vẫn đường quan tâm”. Và, rất quan trọng “Chúng tôi xin lỗi vì đã gây ra sự bất tiện này”. Tự dưng bít đường, và không hướng dẫn cho dân chúng những lựa chọn khác thì gọi là gì?

Không có gì hết, không có ai hết, và mỗi ngày đi làm, tan ca, đi chơi là những cơn ác mộng của dân chúng. Chính trị để làm gì? Nhìn tận gốc rễ, đó là năng lực điều hành, hoạch định chính sách…Không lẽ đó là “của dân”?

Phỏng vấn có đạo đức

Nhiều tờ báo và hãng truyền thông có những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đưa ra bản chi tiết những gì phóng viên của họ được phép và không được phép làm. Một nghiên cứu 304 tờ báo cho thấy, 49% có kiểu quy tắc này. Họ đều nhất trí không chấp nhận kiểu hành nghề theo cách nghe lén.

Những nguyên tắc này thống nhất với nhau ở một số điểm, được Hiệp hội các nhà báo chuyên nghiệp của Mỹ định nghĩa là:

1/ Tìm kiếm và tường thuật SỰ THẬT;
2/ HOẠT ĐỘNG ĐỘC LẬP dưới nhiều áp lực;
3/ HẠN CHẾ đến mức thấp nhất thiệt hại cho những ai (những gì) liên quan.

Chẳng hạn, để hạn chế mức thấp nhất thiệt hại cho những ai (những gì) liên quan tới bài viết, hầu hết các tờ báo, truyền hình…sẽ không nói cụ thể danh tính của những nạn nhân bị hiếp dâm hoặc đăng tải những hỉnh ảnh thi thể người bị chết trong một vụ tội phạm hình sự hoặc tai nạn giao thông. Họ sẽ suy đi tính lại khi xâm phạm vào nỗi đau riêng của một gia đình khi gia đình ấy liên quan tới một vụ án khá thông thường. Mặc dù vậy, điều này không hẳn là luôn đúng với những vụ án liên quan tới những người nổi tiếng. Họ có thể cân bằng giữa ảnh hưởng đến cá nhân so với lợi ích mà cộng đồng có thể có được khi đưa thông tin. Ví dụ một vụ tự sát của một em bé 10 tuổi có thể sẽ đem lại những bài học đắt giá cho cộng đồng.

Các quyết định về đạo đức thường được thể hiện thông qua sự cân bằng giữa lợi ích cộng đồng và thiệt hại của cá nhân. Hoạt động độc lập dưới áp lực nghĩa là tránh được các xung đột giữa các lợi ích như viết các bài báo về sự phát triển đô thị khi bản thân người phóng vấn sở hữu các cổ phần trong tập đoàn phát triển địa ốc của thành phố, hoặc nhận những món quà đắt giá từ một tổ chức ruột của phóng viên đó. Hoạt động độc lập tức là từ chối được những áp lực về kinh tế như các tổ chức dọa không đăng quảng cáo trên báo, nếu những vụ bê bối của công ty bị phơi bày trên tờ báo đó.

Những điều này dẫn tới việc “Tìm kiếm SỰ THẬT” là một nguyên tắc liên quan trực tiếp nhất tới phỏng vấn. Các vấn đề dễ gặp phải nhất là:

– LỪA DỐI
– PHẢN BỘI
– BÓP MÉO SỰ THẬT
– VI PHẠM VÀO SỰ RIÊNG TƯ

Lừa dối nghĩa là tiếp nhận các thông tin với lý do không xác đáng. Tìm kiếm sự thật là mục đích cao quý của tất cả những tập đoàn báo chí. Nhưng chúng ta nên theo vấn đề đến mức nào để tìm ra sự thật ấy? Nghe lén các cuộc trò chuyện phiếm của những người nổi tiếng? Nhìn trộm vào phòng ngủ của họ? Lục trong thùng rác của văn phòng để tìm tài liệu? Giả vờ là trợ lý của thám tử để vào được khu vực vừa có vụ án mạng hiện cấm phóng viên tiếp cận? Lấy trộm tài liệu? Và liệu bạn có thể dẫn lời những người nói chuyện với bạn khi họ không biết rằng bạn sẽ dẫn lời họ trên báo hay không? Những câu hỏi này có vẻ thú vị. Chúng ta cùng xem một ví dụ cổ điển. Trong cuốn sách Những người tạo ra ý kiến (Opinion Makers), tác giả William Rivers mô tả về một quan chức chính trị mới được bầu. Ông này từ chối đưa ra những ý kiến quan điểm của mình với báo chí. Một phóng viên may mắn tiếp cận được với ông ở một quán rượu. Họ nói chuyện. Vị quan chức nói một cách thoải mái về các vấn đề và các quan điểm của ông về tương lai. Phóng viên này chỉ để lộ tông tích vào cuối cuộc trò chuyện. Sau khi bài báo đăng, phóng viên đồng ý rằng có vấn đề về đạo đức trong cách tác nghiệp này, nhưng tranh cãi rằng bất kỳ tin tức nào mà vị quan chức thảo luận công khai đều ít có khả năng được xem là bí mật và tránh được tai mắt của báo chí.

Liệu mục đích có biện minh cho phương tiện không? Liệu vị quan chức kia có phải chịu trách nhiệm vì đã nói chuyện với báo chí không? Tùy bạn kết luận.

Có những câu hỏi chính được đặt ra khi chúng ta thảo luận những đề tài dạng này: “Liệu phóng viên có thể có thông tin theo cách khác được không?”

Những năm 1990, ở Mỹ, các cuộc phỏng vấn mà phóng viên giấu máy quay phim bí mật trở nên rất phổ biến trong số các phóng viên truyền hình. Thậm chí, người ta có những giải thưởng báo chí Pulizer dành cho những tác phẩm xuất phát từ cách làm này.

Nhưng ban cố vấn của Pulizer cũng đặt ra những câu hỏi về đạo đức, qua việc đánh lừa người phỏng vấn để họ hiểu sai về tông tích của phóng viên, hay mục đích cuộc trò chuyện, từ đó nói ra những thông tin bí mật.

Hiệp hội các nhà báo chuyên nghiệp tại Mỹ đưa ra một nguyên tắc đạo đức cấm tất cả các máy quay phim lén và giả dạng, trừ phi “vì lợi ích lớn và quan trọng của cộng đồng” mà phóng viên không thể lấy tin theo cách nào khác ngoại trừ theo cách lừa dối này.

(Metzler, K – 1997, Creative Interviewing: The writer’s guilde to gathering information by asking questions, 3rd edition; USA: Allyn & Bacon)

“Trong hầu hết những tình huống, con người có quyền được biết khi nào thì họ đang nói chuyện với phóng viên” (Báo Beaumont Enterprise, Texas)

“Những người chúng ta phỏng vấn nên hiểu rằng họ đang nói chuyện với phóng viên, và những gì họ nói có thể được xuất bản. Chúng ta nên đặc biệt nhạy cảm với những nguồn tin đang bị chi phối bởi nhiều cảm xúc và sự thiếu hiểu biết, những người không quen tiếp xúc với báo chí, và những người không hiểu tầm quan trọng của những lời nói của họ khi xuất hiện trên báo chí”. (Grand Forks Hedrald, North Dakota).

(Bản dịch từ lâu, bây giờ post lại vì vẫn thấy rất thời sự).