Thời vắng những nhà văn hoá lớn?

Trong một lần gặp gỡ một nhóm sinh viên trẻ ở Hà Nội vài năm trước, tôi hỏi các em: Trong xã hội Việt Nam ngày nay, đặc biệt là trong lãnh vực văn hoá, các em ngưỡng mộ ai nhất? Và tôi ngạc nhiên khi chẳng em nào trả lời tôi được! Nhớ lại hồi còn trẻ, tôi có thể kể năm bảy người mà tôi ngưỡng mộ, những Đào Duy Anh, những Nguyễn Mạnh Tường, những Trần Đức Thảo, những Hoàng Xuân Hãn, những Nguyễn Hiến Lê…  Còn ngày nay? Có thể chăng chúng ta đang sống trong thời vắng những nhà văn hoá lớn?

Thế nào là một nhà văn hoá lớn? Tất nhiên, xã hội nào cũng có những trí thức, những người tham gia (có thể rất tích cực) vào hoạt động văn hoá trong lãnh vực này hoặc lãnh vực nọ… Song, những nhà văn hoá lớn có một vai trò vượt trội những trí thức khác, và không phải bất cứ xã hội nào, lúc nào cũng có những nhà văn hoá như thế. Đó là những người mà sự uyên thâm và nhất là tính kiên trì nghiên cứu (nhiều khi lặng lẽ), năng suất làm việc phi thường (hàng mấy chục quyển sách, hàng trăm bài báo, chằng hạn) hầu như là huyền thoại trong dân gian. Chính tư tưởng của họ “định nghĩa” tính thời đại của một nền văn hoá. Nhà “văn hoá lớn”, nói cách khác, là người có những suy nghĩ vừa sâu vừa rộng, đưa ra những khám phá, lập luận, có tính tổng hợp, liên ngành (ví dụ như lịch sử văn học, triết học nhân chủng học), không bị giới hạn trong một ngành chuyên môn nào. Nhà văn hoá lớn là người có những ý tưởng độc đáo, hoặc có biệt tài tổng kết nhiều luồng tư tưởng khác nhau, từ nhiều lãnh vực khác nhau. Người ấy luôn luôn bám chặt vào những tiêu chuẩn học thuật cao nhất. Qua công việc nghiên cứu của họ, họ khơi dậy sự quan tâm, nâng cao trình độ thảo luận về những vấn đề lịch sử, xã hội, văn minh… nói chung là văn hoá.

Một nhà văn hoá lớn còn phải là một nhà văn hoá dấn thân, nghĩa là, dù tư tưởng của họ có trừu tượng đến mấy, sự chọn lựa chủ đề của họ, hoặc cách tiếp cận chủ đề ấy, luôn luôn có một khiá cạnh nhân bản, hoặc là xuất phát từ những sự trăn trở đối với những vấn đề căn bản của xã hội, của con người (đặc biệt là, nếu hoàn cảnh bắt buộc, những vấn đề liên hệ đến tự do và nô lệ, đến chiến tranh và hoà bình). Nếu đã được đào luyện như là nhà khoa học, một nhà văn hoá lớn có trách nhiệm suy nghĩ về tính nhân văn, tính xã hội của ngành khoa học ấy. Văn hoá, tự thân, là một hiện tượng công cộng. Nhà văn hoá lớn có khả năng khuếch trương tính công cộng của khoa học mà không hi sinh chuẩn mực học thuật. Một nhà văn hoá lớn cống hiến cho xã hội một hệ tư tưởng, nhất là trong lãnh vực xã hội và nhân văn, có khả năng khuấy động những trao đổi, đóng góp của những người khác trong lãnh vực ấy, và qua đó, làm giàu cho sinh hoạt tư tưởng của xã hội.

Nhà văn hoá lớn ngày nay cần phải theo dõi khít khao các luồng tư tưởng về văn hoá, chính trị, kinh tế… thế giới, bởi thế khả năng ngoại ngữ là cần thiết. Tuy nhiên, một nhà văn hoá lớn Việt Nam phải là người nhìn những luồng tư tưởng ấy qua lăng kính dân tộc và văn minh của người Việt Nam. Nói khác đi, một nhà văn hoá lớn phải đặt vấn đề văn minh của dân tộc (dù chỉ để phủ nhận nó, nếu muốn!) làm một trọng điểm của ý thức. Kiến thức là thiết yếu, nhưng một nhà văn hoá lớn phải đem kiến thức ấy phục vụ mục đích nhân văn. Nhà văn hoá lớn ngày nay phải thấm nhiễm tư duy “toàn cầu hoá” nhưng cũng phải có một thái độ rạch ròi về hậu quả của hiện tượng này đến những vấn đề quốc gia và dân tộc.

Những nhà văn hoá lớn là những ngôi sao đặc biệt sáng ngời trong bầu trời có thể đã rất nhiều sao. Những nhà văn hoá lớn không nhất thiết là những thiên tài bẩm sinh (thậm chí, họ càng đáng nễ phục, càng nhiều ảnh hưởng, nếu công trình văn hoá của họ là do sự kiên trì nghiên cứu, tự học…).  Một nhà khoa học xuất chúng có thể đáng ngưỡng mộ nhưng chưa chắc đã là một nhà văn hoá lớn theo nghĩa ở đây.

2

Nếu định nghĩa những nhà văn hoá lớn theo cách đó thì rõ ràng là chúng ta, hiện nay, rất thiếu những nhà văn hoá lớn. Tại sao như thế?

Nhiều người sẽ đổ lỗi cho xã hội. Xã hội không bồi dưỡng những nhà văn hoá nói chung thì làm sao có những nhà văn hoá lớn?  Sự thiếu tôn vinh này quả là đáng tiếc nhưng chưa đủ để giải thích sự thưa vắng những nhà văn hoá lớn, vì sự thực là, như lịch sử cho thấy, đại đa số những ngưòi này không làm việc vì tiền, hay để được xã hội tôn vinh, khen ngợi. Họ cật lực suy nghĩ, viết lách, giảng dạy… vì một sự thôi thúc nội tâm, không phải vì những phần thưởng từ bên ngoài. Thậm chí, nhiều người hãnh diện vì đời sống “khổ hạnh” của mình.

Giả thuyết thứ hai, liên hệ đến giả thuyết thứ nhất, nhưng có vẻ thuyết phục hơn. Dường như ngày càng nhiều phát giác những vụ đạo văn, những vụ lừa bịp, nói chung là những hành động thiếu đạo đức của một số người đã có thời được xem là những “đại thụ văn hoá”. Có thể giải thích rằng những hành động thiếu đạo đức ấy là sự sa ngã do cám dỗ của một xã hội quá trọng vật chất. Những người đáng lẽ là “anh hùng” té ra lại có những cặp chân bằng đất sét.

Bởi vậy, sự thiếu vắng những nhà văn hoá lớn, tôi nghĩ, chỉ phần ít là lỗi của xã hội, mà phần lớn là nhược điểm của chính cộng đồng trí thức (là vườn ươm những nhà văn hoá lớn). Oái oăm là, như vẫn thường nói, “thời thế tạo anh hùng”, thì “thời thế” ngày nay không đến nỗi quá bức xúc để anh hùng “đứng lên”. Cái “lỗi” của xã hội hiện tại không phải vì nó tích cực trù dập những hạt giống văn hoá lớn, nhưng ở sự làng nhàng, sự tầm thường tẻ nhạt cuả nó. Các vấn đề căn bản của xã hội, của con người, đòi hỏi những công trình văn hoá dài hạn, song những “khích lệ” cho các công trình văn hoá trong xã hội ngày nay, nếu có, lại có tính ngắn hạn. Có một sự so le giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng văn hoá.

Nhiều người sẽ cho rằng sự thiếu vắng những trí thức lớn còn có một nguyên do khác, rằng một người trí thức “công cộng” phải được phép tự do phát biểu. Một việc còn rất hạn chế trong hoàn cảnh hiện nay. Nhưng theo tôi, yếu tố thật cần là những cuộc tranh luận, nghĩa là cần những nhà văn hóa lớn khác, và những cuộc tranh luận đó phải bình đẳng, tôn trọng những tiêu chuẩn học thuật phổ quát. Trong tranh luận văn hoá, không ai được quyền dựa vào một thế lực nào ngoài văn hoá.

Có thể rằng, là một nhà văn hoá lớn ngày nay cần có những kiến thức, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ và kiến thức về sinh hoạt văn hoá toàn cầu, hơn bao giờ hết. Nhưng không hẳn là như vậy: có cả vạn người, hàng ngày luớt web khắp thế giới, nhưng chưa bao giờ thực sự là nhà văn hoá. Những thông tin họ biết là hời hợt, nông cạn. Bởi vậy, cái nghịch lý của nhà văn hoá lớn ngày nay là phải vừa biết nhiều, nhưng không cần biết hết, mà phải biết sâu. Phải biết tổng hợp những điều mình nghe thấy với những suy nghĩ của riêng mình. Đây cũng có thể là một lý do của sự thưa vắng những nhà văn hoá lớn, tuy số “trí thức khoa bảng” thì ngày càng nhiều: Với sự chuyên biệt hóa ngành học, ngày càng hiếm đi những người thông thạo nhiều ngành khác nhau, có đủ sức tổng hợp thành một hệ thống tư tưởng độc sáng.

3

Xác nhận sự thiếu vắng những nhà văn hoá lớn là một việc, kết luận rằng đó là một sự kiện đáng quan ngại lại là một việc khác! Bởi, có người sẽ hỏi: tại sao chúng ta cần những nhà văn hoá lớn? Chúng ta có rất nhiều nhà khoa học, giáo sư, kỹ sư mọi ngành cần thiết cho sự phát triển của đất nước (và chúng ta không bao giờ thiếu những nhà thơ, nhà văn!).  Như vậy không đủ sao? Tôi nghĩ là không đủ. Đúng là chúng ta cần phát triển kinh tế, cần cơm ăn áo mặc, cần một đời sống văn hoá không đến nỗi nghèo nàn… Nhưng chúng ta cũng cần những tinh hoa vượt trội. Dù bầu trời đã lấp lánh muôn sao, chúng ta vẫn cần những ngôi sao thật sáng. Đó là những ngôi sao chỉ đường, bởi lẽ một xã hội phải biết hướng tiến cho văn hoá của xã hội ấy.

Nhưng tầm vóc của một nhà văn hoá không phải ngày một ngày hai mà có đuợc. Hãy hi vọng rằng ngay giờ phút này đây đang có những nhà văn hoá trẻ miệt mài xây dựng sự nghiệp văn hoá của mình. Cho những ngưòi trẻ này, vào những ngày xuân hôm nay, chúng ta nâng ly chúc mừng và chúc các bạn kiên trì, may mắn, cho bạn, mà cũng cho chúng ta.

Trần Hữu Dũng
Tháng 12, 2010

(Thắc mắc: sao lại cần dấu hỏi ở đề bài nhỉ?.  Mà nước Mỹ sao lại không có Bộ Văn hóa nhỉ? Hé hé hé. )

Vì sao lạc quan?

Việt Nam đứng đầu trong nhóm 10 nước có tinh thần lạc quan nhất thế giới, theo kết quả thăm dò của Viện BVA (Pháp) vừa công bố vào những ngày đầu năm 2011. Trong khi đó, ngày 15.8.2010, tờ Newsweek công bố Việt Nam là nước xếp vị trí thứ 81/100, xét về chất lượng sống. Câu hỏi đặt ra, vì sao chất lượng sống thấp mà chỉ số lạc quan của người dân lại cao như vậy?

Hãy nhìn vào bảng xếp hạng về nhóm các nước lạc quan nhất thế giới, theo điều tra của BVA, bên cạnh Việt Nam, còn có các nước mới nổi như Trung Quốc, các nước nghèo như Nigeria, các nước vừa thoát khỏi chiến tranh hoặc thậm chí chỉ mới giảm xung đột vũ trang như Afghanistan, Iraq, Pakistan. Điều này cho thấy, về cơ bản, có hai “điều kiện” để dẫn đến (tâm lý) lạc quan của người dân: đất nước vừa trải qua binh biến và đang nâng niu, tận hưởng nền hòa bình, an ninh trong đời sống; đất nước sống dưới sự lãnh đạo, bảo hộ bởi một chính phủ.

Xét điều kiện thứ nhất dẫn đến sự lạc quan, có thể cảm nhận, người Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh, thấm thía cảnh li tán, đổ máu, việc hiểu, trân trọng sự yên ổn, hòa bình từng giây từng phút là điều hiển nhiên. Thậm chí, quá nhức nhối với vết thương chiến tranh trong quá khứ để lại, nhiều người Việt hôm nay né tránh câu chuyện chính trị, họ xem chính trị là của “mấy ông bà ở trển”, của nhà nước, trong lúc đó, đồng thời đánh mất một trong những ý nghĩa quan trọng của chính trị đó là xác định điều kiện, vị trí, vai trò chỗ đứng của cá nhân trong xã hội mà anh ta đang sống.

Thực tế đó, đưa đẩy đến một tâm lý tiêu cực, đó là người dân tự đánh mất ý thức về tiếng nói, ngại ngần cống hiến trí lực của mình cho cộng đồng hay tham gia trực tiếp vào cỗ máy vận hành xã hội. Chính trị, họ giao cho nhà nước, còn đời sống khó khăn thì tự xoay xở, tùy cơ ứng biến. “Tự lo” là triết lý sống của nhiều người. Điều này cũng dẫn đến ý thức, hành xử công cộng ngày càng yếu.

Cái giá của hiện tại hòa bình đã trả bằng biết bao xương máu từ quá khứ chiến tranh. Nhưng cái giá của việc quá sợ mất hòa bình và sự yên ổn cá nhân đã dẫn đến sự cam phận, an phận thủ thường, ngại đụng chạm, phản ứng, thậm chí phớt lờ trước những bất công đang xảy ra trong cộng đồng, trước sự bê bối nhũng nhiễu đang diễn ra trước mắt, trước sự biểu hiện xói mòn những giá trị đạo đức xã hội.

Chưa bao giờ, hai từ “vô cảm” được báo chí nhắc đến nhiều như trong thời hiện tại. Phẩm chất xã hội nhân văn bị bào mòn, thay vào đó, những kỹ năng đối phó, tranh giành, ích kỷ được trang bị như những phản ứng mang tính bản năng sinh tồn.

Các con số báo cáo phát triển hàng năm từ chính phủ vẫn cho người dân sự an tâm và tin vào sự phát triển của đất nước mà họ dự phần xây dựng, thậm chí, mở ra những hy vọng tương lai tươi sáng. Song, những cải thiện cơ bản về chính sách an sinh xã hội – cái chìa khóa để thăng tiến con người mà ta vẫn gọi là chất lượng sống thì đang được mài giũa một cách chậm chạp suốt 35 năm hòa bình nhưng lại luôn trật khớp với tốc độ phát triển. Người dân có thể hài lòng vì đời sống kinh tế tốt lên, an ninh được đảm bảo cơ bản nhưng quên mất sự bươn trải đối phó tính toán căng thẳng trong từng ngày, từ chuyện giao thông đi lại, môi trường giáo dục con cái, vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng dịch vụ y tế thấp hay môi trường sống đang ngày càng nhiều đe dọa…

Thâu tóm tinh thần kết quả của đề tài nghiên cứu về mức sống và môi trường sống của người dân TP.HCM do Viện Nghiên cứu Phát triển TP .HCM công bố đầu năm 2010, Ths Lê Văn Thành, chủ nhiệm công trình, lý giải vì sao thu nhập đầu người tăng mà chất lượng sống lại giảm, rằng: “Nói về mức sống tính theo thu nhập thì nó cụ thể nhưng chất lượng sống – vừa mang tính vật chất vừa có khái niệm về tinh thần – lại không đơn thuần có nhiều tiền là có cuộc sống tốt. Chất lượng cuộc sống của người dân TP.HCM có thể nói là giảm.” (Tuổi trẻ, 25.1.2010)

Đúc kết đó cho thấy, bao giờ khái niệm tăng trưởng bền vững với các tiêu chí điều kiện môi trường, chất lượng sống của người dân, di sản giá trị tinh thần để lại cho thế hệ tương lai được đảm bảo hàng đầu mới là cái đích cần hướng đến của một quốc gia, chứ không đơn thuần dừng lại ở niềm tin và sự thỏa mãn tạm thời như một phép thắng lợi tinh thần căn cứ trên phép tính trung bình ở mỗi túi tiền của người dân.

Trong trường hợp Việt Nam, có thể hiểu, về mặt nào đó, lạc quan cũng là một phương cách, liệu pháp tinh thần giúp người ta tự hài lòng với hiện tại. Chỉ số chấp nhận sống chung với nghịch cảnh cao cộng với tâm lý hy vọng “chớ than phận khó ai ơi/ còn da lông mọc còn chồi nẩy cây” luôn được phát huy hết mức. Đây có lẽ cũng là một nét đặc thù dân tộc tính của người Việt được hun đúc qua lịch sử triền miên bị đô hộ, triền miên ứng phó thiên tai. Lạc quan, dĩ hòa vi quý vừa là điều kiện tốt để chính quyền xây dựng một đời sống an ninh đảm bảo nhưng nó vừa là trở lực trong xây dựng những thể chế hiện đại hơn, hướng đến sự đột phá trong xây dựng mạng lưới an sinh, xã hội dân sự.

Chỉ số lạc quan cao trong điều kiện chất lượng đời sống người dân thấp, từ một góc nhìn khác, nó không hẳn đem lại sự… lạc quan, mà có thể xem là một tín hiệu đáng báo động!

Nguyễn Vĩnh Nguyên

Tuyên ngôn của một tờ báo

 Ttờ báo theo đuổi mục đích, phương châm gì trong hoạt động thì tuyên ngôn (slogan) sẽ thể hiện như thế. Vào tháng 12-2010, kỷ niệm 25 năm ngày ra đời của The Philippines Inquirer – tờ báo khổ lớn bằng tiếng Anh có lượng độc giả nhiều nhất của Philippines, những người phụ trách đã chia sẻ với bạn đọc về quá trình ra đời của tuyên ngôn tờ báo – một trong những yếu tố quan trọng nhất để thu hút độc giả, vạch đường đi cho sự phát triển lâu dài của sản phẩm có nhiều ý nghĩa trong sự phát triển của xã hội, và  thu hút quảng cáo.

Từ 25 năm trước, The Philippines Inquirer đã chọn tuyên ngôn “Tin tức cân bằng, quan điểm bạo dạn” (Balanced news, fearless views). Nhưng không phải ngẫu nhiên mà The Inquirer chọn tuyên ngôn này, và duy trì nó cho đến nay.

  27.000 sáng kiến

 Khi ra đời, tờ báo đã quảng cáo kêu gọi độc giả giúp họ tìm ra slogan với tặng giải thưởng hậu hĩnh. Lý do là tờ báo ra đời trong vội vã, trong bối cảnh xã hội nhiều biến động nên những người thực hiện không có thời gian để nghĩ ra một slogan hay, bởi vậy, sự hỗ trợ của độc giả là điều quý giá, nhất là khi độc giả đọc tờ Inquirer hàng ngày, họ sẽ tìm thấy niềm cảm hứng cho một slogan mới mẻ. Tính tới ngày 9-1-2989, 27 ngàn hồi đáp của bạn đọc đã đến với tờ báo.

 3 giám khảo

 Nhiều hồi đáp xuất phát từ những nhân vật rất uy tín trong xã hội. Bởi vậy, tờ báo lập ra 1 ban giám khảo gồm 3 người, trong đó có nhà báo kỳ cựu và rất có uy tín Napoleon Rama, khi đó là Chủ tịch của CLB báo chí nước ngoài ở Manila; Josie Tan-Magtoto, Chủ tịch Tổ chức truyền thông in ấn của Philippines, và một người là biên tập viên tại Philippines của hãng tin AP (Mỹ) tại Philippines.

 Có một gợi ý của độc giả khiến ban giám khảo có một trận cười nhớ  đời: “Một tờ Inquirer mỗi ngày sẽ giúp ta đuổi bọn dối trá đi nơi khác” (An Inquirer a day keeps the liars away). Đây là câu “ăn theo” của câu nói “An apple a day keeps a doctor away”, tức là “Ăn quả táo mỗi ngày thì không bao giờ cần phải đến gặp bác sỹ” – nói về tác dụng đối với sức khỏe của việc ăn táo hàng ngày. 

 Cuối cùng 3 tuyên ngôn được chọn vào chung kết là:

 “Fair. Fearless. Filipino” – Công bằng. Bạo dạn. Đầy sắc thái Philippines

 “So the truth may prevail”- Để sự thật có thể thắng thế

 “News without bias, views without fear” – Tin tức không thiên vị, tầm nhìn không sợ hãi

 Cuối cùng, tuyên ngôn thứ 3 được chọn trao giải cao nhất. Tờ Inquirer đã phát triển từ gợi ý của độc giả đó lên thành tuyên ngôn mạnh mẽ hơn là “Balanced news, fearless views” đã nhắc tới ở đầu bài.

 Hiện số lượng phát hành của tờ Inquirer là 260 ngàn bản, và độc giả khoảng 1,2  triệu. Đây là một trong những tờ báo hàng đầu của Philippines. Việc tờ báo lấy tên “The Philippines Inquirer” cũng không phải ngẫu nhiên. Nó xuất phát từ tên gọi The Philadelphia Inquirer, tờ báo lâu đời thứ 3 đến nay vẫn còn tồn tại ở Mỹ. Tờ báo này từng đoạt 17 giải thưởng Pulitzer danh giá dành cho báo chí Mỹ trong 15 năm, kể từ những năm 1970. The Philadelphia Inquirer là tờ báo có lịch sử và vai trò nổi bật. Cái tên “Inquirer” (Người điều tra) cũng mô tả rõ nhất tình cảnh báo chí bị câm miệng ở Philippines thời đó.

 Một số slogan của các tờ báo hiện nay:

 * Toronto Star (Ngôi sao Toronto, Canada)

 Toronto Star. It’s where you live. (Ngôi sao Toronto. Đó là nơi bạn sống)

 * Sowetan (tờ báo miễn phí phát cho người dân ở thị trấn Soweto, Johanesburg, Nam Phi)

 Power your Future. (Thêm sức mạnh cho tương lai bạn).
Sowetan. Building the Nation. (Sowetan. Kiến tạo quốc gia)

 * Daily Times (Thời báo hàng ngày, Lahore, Pakistan)

 Your right to know. A new voice for a new Pakistan. (Quyền được biết của bạn. Tiếng nói mới cho Pakistan mới)

 * Indian Express (Tin nhanh Ấn Độ)
Indian Express. Journalism of courage. (Indian Express. Báo chí của lòng dũng cảm)

* Cape Argus (báo buổi chiều tại Cape Town, Nam Phi)

Cape Argus. News you can use. (Cape Argus. Tin tức bạn có thể dùng)

* Nasha Canada (2 tuần một lần, báo dành cho người thiểu số nói tiếng Nga)

The newspaper for those who can read. (Tờ báo cho những ai biết đọc)

* Scotland ( Báo chủ nhật, khổ lớn)

Scotland up close.  (Scotland cận cảnh)

* Courier News, Bridgewater, New Jersey, Mỹ

Local News. First in the Morning. (Tin địa phương. Nhanh nhất vào buổi sáng)

* Báo Scotsman  

The Scotsman. It’s thinking time. (The Scotsman. Đến lúc suy nghĩ).

* Edinburgh, báo ra buổi chiều

Evening News. Tomorrow’s News Today. (Tin tức buổi chiều. Tin hôm nay cho ngày mai)

* The Australian, báo quốc gia Úc

Are you an informed Australian? (Bạn có phải là người Úc thạo tin?)

* The Daily Telegraph, báo Anh, khổ lớn

We’ve got the greatest writers.

Read a bestseller every day.
Daily Telegraph. Britain’s Best Selling Daily Broadsheet.
Daily Telegraph. Share Trader Game.

(Chúng tôi có những cây viết giỏi nhất.

Đọc tờ báo bán chạy nhất mỗi ngày.

Tờ báo khổ lớn bán chạy nhất của Anh.

Cùng giao dịch.)

* Wairarapa Times-Age, Masterton, New Zealand
Your Region. Your Paper. (Khu vực của bạn. Tờ báo của bạn)

* The Sunday Herald, Scotland

Sunday Herald. Seven Days. One paper. (Sunday Herald. 7 ngày. 1 tờ báo)

* The Sun, báo lá cải của Anh

The Sun. Chúng tôi yêu thích lắm!

* The Sunday Post, báo Scotland

The Sunday Post. It makes perfect sense. (The Sunday Post. Thật là có lý!)

* Thisday, báo Nigeria

Thisday. African views on global news (Các góc nhìn châu Phi về tin tức toàn cầu)

* Scottsbluff Star-Herald, Nebraska, Mỹ

The Star-Herald. Pride in the Panhandle. (Niềm tự hào ở Panhandle).

* The Guardian, a British daily newspaper 

The Guardian. Think… (Báo The Guardian. Nghĩ…)

* The News of the World, (Báo lá cải Tin thế giới, Anh)

Big on Sundays. (Tin lớn mỗi Chủ nhật)

* Financial Times Newspaper – Thời báo tài chính

No FT, No Comment (Không có FT, không đưa ra bình luận)

* The Independent newspaper 

The quality compact.
It is. Are you?

(Tờ báo cô đọng chất lượng. Thật vậy. Còn bạn?)

* New York Times Newspaper (Tờ New York Times)
All the News That’s Fit to Print  (Tất cả tin tức phù hợp để in)

* Wall Street Journal
The daily diary of the American dream (Nhật ký của giấc mơ Mỹ)

* The Times, Anh

Join the debate.
Are you missing what’s important?
Top people take the Times.
When The Times speaks, the World listens.
Have you ever wished you were better informed?

(Tham gia đàm luận.

Bạn có bỏ lỡ điều gì quan trọng không?

Những người hàng đầu đều đọc the Times

Khi The Times nói, thế giới lắng nghe.

Bạn có từng ước mình thạo tin hơn?)

* Cape Times 
There’s nothing more valuable than knowledge (Không có gì giá trị hơn kiến thức)

* Helsingin Sanomat  

Scandinavia’s BIGGEST newspaper (Tờ báo LỚN NHẤT của vùng Scandinavia)

* Bild, Đức

Bild. Read the world’s fastest newspaper (Bild. Đọc tờ báo nhanh tin nhất thế giới)

* Herald newspaper, Everett, Washington, USA 
Herald. If It Matters To You, It Matters To Us (Herald. Nếu bạn quan tâm, chúng tôi quan tâm).

* New Stateman, (báo chính trị, xã hội của Anh)  

Expand your mind, change your world (Mở rộng tầm nhìn của bạn, thay đổi thế giới của bạn)

Bát mì của lòng tự trọng

Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách lạ, có thể đoán là một người cha và một người con. Người cha bị mù, người con trai đi bên cạnh ân cần dìu cha. Cậu con trai trạc mười tám, mười chín tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng từ cậu lại toát lên nét trầm tĩnh của người có học, dường như cậu vẫn đang là một học sinh.
Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi. Cậu nói to: “Cho hai bát mì bò!”. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, khẽ bảo với tôi rằng chỉ làm một bát mì cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành là được. Lúc đầu, tôi hơi thắc mắc, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát mì thịt bò như vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, tôi đoán cậu không đủ tiền, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười thông cảm với cậu.
 
Nhà bếp nhanh nhẹn bê lên ngay hai bát mì nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát mì bò đến trước mặt cha, thương yêu chăm sóc: “Cha, có mì rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!”. Rồi cậu ta tự bưng bát mì nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con. “Ăn đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội”. Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt sạm nắng, nhăn nheo lại sáng lên nụ cười ấm áp và mãn nguyện. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên là người con trai không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, anh điềm nhiên nhận miếng thịt, rồi anh lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về bát mì của cha.
 
Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. “Cái quán này thật tử tế quá, một bát mì mà biết bao nhiêu là thịt”. Ông lão cảm động nói. Đứng bên cạnh họ, tôi chợt thấy tim mình thắt lại, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, quắt queo bằng móng tay, lại mỏng chẳng khác gì xác ve. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: “Cha à, cha ăn mau ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này”. “Ừ, ừ, con ăn nhanh lên, ăn mì bò là bổ dưỡng lắm đấy con ạ”.

Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai thực khách đặc biệt. Vừa lúc đó, cậu Trương đầu bếp bê lên một đĩa thịt bò thơm phức, bà chủ đưa mắt ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: “Anh để nhầm bàn rồi thì phải?, chúng tôi không gọi thêm thịt bò.” Bà chủ dịu dàng bước lại chỗ họ: “Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỉ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng”. Cậu con trai không hỏi gì thêm. Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa.
 
Chúng tôi âm thầm quan sát hai cha con ăn xong, tính tiền, rồi dõi mắt tiễn họ ra khỏi quán. Mãi khi cậu Trương đi thu dọn bát đĩa, chúng tôi bỗng nghe cậu kêu lên khe khẽ. Hoá ra, bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy xếp gọn, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò được viết trên bảng giá của cửa hàng./.
 
Ta vẫn gặp trong cuộc đời nhiều người rất nghèo về vật chất nhưng lại giàu lòng tự trọng. Lòng tự trọng giúp ta có thêm nghị lực để ngẩng cao đầu, vượt qua khó khăn, nghịch cảnh, sống hạnh phúc vì luôn vững tin vào chính mình.
Lòng tự trọng với ánh hào quang chói lọi của nó sẽ trở thành lương tri con người.

(Sưu tầm)

Mẹ của con

Bà Christine, mẹ của nhà sáng lập ra Wikileaks Julian Assange khi được hỏi đã lo ngại cho sự an nguy của con mình. Bà nói bà có cảm giác giống như các bà mẹ có con ra chiến trường. Việc con mình làm là nguy hiểm cho sự an toàn của nó. “Nhưng cùng lúc, tôi hạnh phúc vì con tôi đã làm điều mà nó tin. Chuyện con tôi nổi tiếng chả liên quan gì tới tôi”.

Bà đang điều hành một nhà hát múa rối ở Úc, và nghĩ con trai mình “rất dũng cảm”. “Tôi nghĩ tôi rất tôn trọng và khâm phục khả năng, kiến thức và lòng dũng cảm của nó khi đứng lên chống lại thế lực lớn. Điều làm tôi hạnh phúc khi làm mẹ chính là nhìn thấy con mình chiến đấu vì điều mà nó tin tượng, và làm điều nó mà nó yêu thích”.  Bản thân bà không sở hữu cái máy tính nào cả.

Một bà mẹ như vậy sẽ đẻ ra đứa con sống cuộc đời không vô ích. Sự ủng hộ, yêu thương, tin cậy, khích lệ, động viện vô bờ bến của người mẹ, người cha, đứa con sẽ không phải “sống mòn”.

“Dù bạn có đồng ý hay không với những gì Julian làm thì việc sống với niềm tin của mình và chiến đấu vì niềm tin đó là điều rất tốt” – bà nói.