Ảo tưởng nguy hiểm nhất của con người

Trong phần trả lời phỏng vấn của báo Spiegel, nhà hoạt động hòa bình, tác giả Jonathan Schell đã nêu lên những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng hạt nhân tại Fukushima. Và tại sao ông cho rằng cuộc khủng hoảng hạt nhân tại Nhật Bản sẽ đánh dấu một bước ngoặt đối với thế giới .

Spiegel: Điều gì khiến ông ưu tư nhất về thảm họa hạt nhân Fukushima?

Schell: Rõ ràng toàn bộ vụ thảm họa hạt nhân này nằm ngoài mọi sự chuẩn bị. Thử nhìn vào các sách hướng dẫn đối phó với tai nạn an toàn hạt nhân, bạn không thể tìm thấy mục nào nói rằng: tập trung máy bay trực thăng quân sự, múc đầy nước biển và cố gắng hết sức giội nước vào lò phản ứng nhằm làm mát các thanh nhiên liệu. Hay cũng chẳng có hướng dẫn nào quy định: đưa xe tải kiểm soát bạo động đến phun nước vào các lò phản ứng để ngăn ngừa rò rỉ phóng xạ. Những gì đang diễn ra ở Nhật Bản đã minh chứng sự khó lường của thảm họa hạt nhân.

Spiegel: Nhưng những người ủng hộ năng lượng hạt nhân lại kể một câu chuyện hoàn toàn khác. Họ nói rằng Fukushima là một nhà máy điện hạt nhân cũ và lỗi thời cùng lúc bị sóng thần và động đất đánh vào – và cho đến nay chỉ có một số ít người bị phơi nhiễm phóng xạ. Vẫn chưa có người nào chết vì bị nhiễm xạ trực tiếp.

Schell: Rõ ràng là cho đến nay, mọi chuyện vẫn còn tốt hơn nhiều viễn cảnh một vụ nổ hạt nhân khổng lồ theo phiên bản Chernobyl. Nhưng tôi cho rằng bất kỳ phân tích hợp lý nào cũng sẽ cho thấy: nhà máy điện hạt nhân vẫn chưa nằm trong tầm kiểm soát. Những người điều hành nhà máy đang cố trấn an sự hoảng loạng không kiểm soát nơi người dân. Các chuyên gia tại nhà máy Fukushima đã đưa ra hàng loạt phương án giải quyết và sửa chữa, nhưng không có gì chắc chắn. Sẽ không ai dám mô tả sự kiện này là một mô hình an toàn hạt nhân. Vì mô tả như vậy thì chẳng khác nào nói cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba (1962) là ví dụ điển hình về độ an toàn của kho vũ khí hạt nhân.

Spiegel: Không chỉ ở Đức mà còn ở Hoa Kỳ và Trung Quốc, mọi người lo dự trữ các viên iốt. Đồng thời, những chuyến hàng đến từ Nhật Bản  được kiểm tra phóng xạ chặt chẽ. Vậy theo ông, đâu là nguyên nhân sâu xa của nỗi sợ hãi năng lượng hạt nhân?

Schell: Trong tâm trí người dân, điện hạt nhân có liên quan đến vũ khí hạt nhân. Trong thực tế, nguồn năng lượng phát sinh ở cả hai trường hợp đều phát xuất từ phản ứng dây chuyền hạt nhân. Quả thật, không thể xảy ra một vụ nổ nguyên tử trong một nhà máy điện hạt nhân, nhưng người dân cũng đúng khi gán ghép hai hình ảnh này với nhau. Thứ nhất, cả hai trường hợp đều gắn liền với việc phổ biến hạt nhân nguyên tử. Thứ hai, thảm họa ở nhà máy điện hạt nhân và vũ khí hạt nhân đều có khả năng phát tán phóng xạ hạt nhân không kiểm soát, trường hợp điển hình là thảm họa ở Chernobyl. Thứ ba, vấn đề chất thải là một thách thức không nhỏ. Người ta phải chôn chất thải hạt nhân dưới lòng đất gần nửa triệu năm. Như vậy, chúng ta đang hành động như thể người trần gian làm chuyện trên trời, dù chúng ta không thể sống đủ lâu để làm chuyện đó.

Spiegel: Ông cho rằng kinh doanh năng lượng hạt nhân chẳng khác nào chơi một canh bạc với “sức mạnh của mẹ thiên nhiên.” Tại sao năng lượng hạt nhân lại khác hẳn với các nguồn năng lượng khác?

Schell: Bởi vì nó là một thứ năng lượng có sức mạnh khổng lồ. Loại năng lượng tương đương với nó mới chỉ được tìm thấy ở phần lõi của các ngôi sao, không thể tự nhiên tìm thấy trên trái đất. Nhờ những phát minh khoa học tuyệt vời, con người mới có thể sản xuất ra nó trên trái đất. Nhưng, thật không may, chúng ta vẫn chưa đạt đủ trình độ tiên tiến về mặt đạo đức, chính trị như trong khoa học, vậy nên, chúng ta vẫn chưa thật sự sẵn sàng để kiểm soát nguồn năng lượng này đúng cách. Ảo tưởng nguy hiểm nhất ở đây là: con người nghĩ họ có thể kiểm soát năng lượng hạt nhân.

Spiegel: Bất chấp những quan ngại này, chúng ta đang thấy sự “phục hưng” về năng lượng hạt nhân trong những năm gần đây.

Schell: Tôi không nghĩ rằng thực sự có cái gọi là sự “phục hưng” trong năng lượng hạt nhân. Rõ ràng có cụm từ “phục hưng hạt nhân”, nhưng tại nhiều quốc gia trên thế giới, khía cạnh tài chính của điện hạt nhân vẫn không mấy sáng sủa. Các ngân hàng không mặn mà với việc chi tiêu tài chính cho các nhà máy điện hạt nhân mới. Những công ty bảo hiểm khá miễn cưỡng khi trang trải cho các rủi ro liên quan đến hạt nhân.

Spiegel: Nhiều nhà môi trường học hiện nay thậm chí còn kêu gọi phát triển năng lượng hạt nhân, bởi vì họ coi đó là cách duy nhất để hạn chế biến đổi khí hậu.

Schell: Tôi thấy lập luận của họ còn yếu kém. Hiện nay, có khoảng 450 nhà máy điện hạt nhân trên thế giới. Để giảm đáng kể lượng khí thải carbon sẽ phải tăng gấp đôi hoặc gấp ba số nhà máy nêu trên, không chỉ tại các nước có kỹ thuật tinh vi như Nhật Bản. Quan trọng hơn, tôi e rằng cố gắng thực hiện phương án như trên sẽ dẫn đến thất bại. Hãy nghĩ xem chi phí sẽ ra sao nếu chúng ta đổ nguồn lực khan hiếm của quốc gia vào một dữ án có sai sót, và sau đó thảm họa ập đến, còn chúng ta bị buộc phải thanh toán cho khoản đầu tư xây dựng. Lúc này, tai họa không còn là của riêng nước nào, nhưng sẽ là một thảm họa đối với nỗ lực chung nhằm ngăn chặn hiện tượng nóng lên toàn cầu.

Spiegel: Thủ tướng Đức Angela Merkel luôn là người ủng hộ năng lượng hạt nhân. Nhưng hiện nay, bà ấy đang xúc tiến kế hoạch giảm dần các dự án năng lượng hạt nhân ở Đức. Liệu nước Đức có thể thành công trong sứ mạng chấm dứt hoàn toàn nguồn năng lượng điện hạt nhân?

Schell: Phong trào chống hạt nhân ở Đức chắc chắn mạnh mẽ hơn bất cứ nước nào khác, ngay cả trước khi xảy ra sự cố Fukushima. Tôi muốn nói rằng có khả năng Đức sẽ sớm thực hiện chính sách cắt giảm điện hạt nhân, và các nhà máy điện hạt nhân ở Đức sẽ bị ngưng hoạt động. Tôi tin rằng Nhật Bản cũng sẽ đi theo hướng này.

Spiegel: Tại sao chúng ta vẫn chưa thấy cuộc biểu tình chống hạt nhân tương tự diễn ra tại Hoa Kỳ?

Schell: Ngành công nghiệp hạt nhân có lẽ không còn được quan tâm nhiều ở Hoa Kỳ, bởi vì chúng ta vẫn chưa thấy xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới, kể từ khi tai nạn ở nhà máy điện hạt nhân Three Mile Island diễn ra ở bang Georgia (Hoa Kỳ) năm 1979.

Spiegel: Nhưng Tổng thống Mỹ Barack Obama vừa công bố xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới.

Schell: … và cho đến nay, người dân ở Mỹ dường như chẳng mấy phiền lòng vì nó. Đó là sự thật, cho đến bây giờ. Các cuộc thăm dò gần đây cho thấy số người ủng hộ điện hạt nhân đã giảm mạnh. Thành thực mà nói, tôi nghĩ rằng người Mỹ không mấy để tâm đến vấn đề này. Chính lúc này, tai nạn hạt nhân ở Fukushima sẽ đánh thức tâm trí người dân.

Spiegel: Ông Obama sẽ từ bỏ chính sách ủng hộ năng lượng hạt nhân của mình?

Schell: Trong thực tế, có khả năng như vậy. Ông Obama sẽ dừng lại – một phần là do liên quan đến ngân sách quốc gia. Nếu bạn muốn gắn vào nhà máy tất cả các tính năng an toàn mới, thì chi phí sẽ tăng lên. Chi phí xây dựng một nhà máy điện hạt nhân hiện nay đã lên đến hàng chục tỷ đô la.

Spiegel: Không lâu sau phát hiện ra năng lượng hạt nhân, khắp Hoa Kỳ, mọi người đều ủng hộ nó. Trong những năm 1950, chính quyền của tổng thống Eisenhower đã nhiệt tình xúc tiến chương trình “Nguyên tử vì hòa bình”.

Schell: Đây là câu chuyện thú vị bởi vì dưới thời Tổng thống Dwight D. Eisenhower, có sự kết nối chặt chẽ giữa năng lượng hạt nhân với vũ khí hạt nhân. Ông Eisenhower tăng kho vũ khí hạt nhân của Mỹ từ 1.400 lên đến 20.000 đầu đạn hạt nhân. Nhưng ông cũng muốn tăng cường yếu tố hạt nhân vì hòa bình trong chính sách của mình. Đó là lý do vì sao chương trình “nguyên tử vì hòa bình” được khởi động, theo đó các nước được cung cấp công nghệ sản xuất điện hạt nhân – “nguyên tử thân thiện” để đổi lại các ràng buộc về phổ biến vũ khí hạt nhân – “nguyên tử hủy diệt”. Ngày nay, tiền lệ này vẫn còn thể hiện trong các điều khoản của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân.

Spiegel: Tổng thống Obama vạch ra tầm nhìn về một thế giới không có vũ khí hạt nhân. Nhưng mọi người phản ứng khá thờ ơ, thậm chí ngay trong đảng của ông. Ông nghĩ sao về điều này?

Schell: Dưới thời Tổng thống Obama, có vẻ như chỉ có mình ông trong chính phủ cầm quyền thực sự tin vào tầm nhìn này. Nhưng công chúng đứng về phía tổng thống. Nếu bạn hỏi người dân liệu họ có muốn sống trong một thế giới không có vũ khí hạt nhân, đa số sẽ khẳng định là: Có. Ở khía cạnh khác, cơ cấu chính quyền quan liêu vẫn tồn tại trong Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao, trong Bộ Năng lượng. Chính điều này đã khiến tầm nhìn mới của ông Obama về một thế giới phi hạt nhân không thể nào trở thành hành động cắt giảm hạt nhân cách cụ thể. Ngài tổng thống cần nhiều quan chức ủng hộ mình trong chính phủ hơn nữa.

Phần 2: Ngày nay, sự hủy diệt thế giới ít có khả năng diễn ra, nhưng về mặt kỹ thuật là có thể.

Spiegel: Một thế giới không có vũ khí hạt nhân có phải là một tầm nhìn thực tế? Với công nghệ hạt nhân đang có hiện nay, việc triển khai phi hạt nhân hóa toàn cầu có thể ví như bắt thần đèn đã thoát khỏi đèn thần vào năm 1945 ở Hiroshima lại phải chui vào cây đèn một lần nữa?

Schell: Sẽ không bao giờ có một thế giới không có hạt nhân tồn tại. Một khi con người đã chiếm lĩnh được tri thức, thì tri thức không bao giờ bị lạc mất. Vì vậy, bức tranh không vũ khí hạt nhân phải là một bức tranh sống không có vũ khí hạt nhân, chứ không phải sống với tri thức tạo ra chúng. Có nhiều cuộc tranh luận quá quen thuộc chống lại một thế giới phi hạt nhân bằng những lập luận: rồi sẽ có người sẽ sử dụng kiến thức còn sót lại, tạo ra một loại vũ khí hạt nhân và bắt đầu ra lệnh cho thế giới không có khả năng tự vệ. Điều tôi muốn nói là các quốc gia khác trên thế giới cũng sẽ có được  kiến thức tạo ra vũ khí hạt nhân và họ có thể, trong thời gian rất ngắn, tái trang bị vũ khí hạt nhân. Do đó, sự mất cân bằng ngày càng mang tính nhất thời hơn nhiều so với ban đầu.

Spiegel: Cấm vũ khí hạt nhân liệu có khả thi nếu không bãi bỏ năng lượng hạt nhân?

Schell: Thế giới không còn vũ khí hạt nhân phải là một một thế giới kiểm soát chặt chẽ công nghệ hạt nhân. Tuy nhiên, chừng nào con người vẫn còn tiếp tục sản xuất năng lượng hạt nhân, bao lâu uranium vẫn tiếp tục được làm giàu và plutonium vẫn đang được chế tạo ở đâu đó trên thế giới, thì việc kiểm soát chặt chẽ tất cả công nghệ hạt nhân sẽ rất khó khăn.

Spiegel: Ông quan ngại thế nào về các mối đe dọa hiện nay, khi công nghệ hạt nhân có khả năng rơi vào tay những kẻ xấu?

Schell: Vấn đề này rất thực tế. Hai điểm nóng trên thế giới đang có hoạt động phổ biến hạt nhân mạnh mẽ hiện nay là Iran và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Nhưng ta có thể thấy nhiều quốc gia khác cũng đang bày tỏ sự quan tâm đặc biệt với điện hạt nhân. Đặc biệt, việc chuyển giao công nghệ hạt nhân ở Trung Đông, đang trở thành mối nguy hiểm thực sự. Chúng ta có thể có ít vũ khí hạt nhân hơn, nhưng lại có thêm nhiều bàn tay đặt trên ngòi nổ hơn.

Spiegel: Có phải chính điều đó làm cho thế giới ngày hôm nay nguy hiểm hơn thế giới trong cuộc Chiến tranh lạnh năm xưa?

Schell: Không, ký ức về một thời khủng hoảng tên lửa Cuba giữa Chiến tranh lạnh vẫn còn sống động trong tâm trí tôi, mọi chuyện lúc ấy được ví như: ngày tàn của thế giới. Nếu không kể đến điều đó, thì quả thật bản chất của nguy hiểm trong thế giới hôm nay đã thay đổi.

Spiegel: Như vậy, hủy diệt nhân loại bằng vũ khí hạt nhân vẫn có thể xảy ra?

Schell: Về cơ bản, khả năng đó vẫn còn. Điều kinh khủng hơn chính là viễn cảnh tất cả các loại vũ khí sẽ được châm ngòi cùng một lúc. Rõ ràng, trong xu thế hiện nay, khả năng này ít xảy ra như thời Chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, sẽ có những mối nguy khác xảy đến, dù con người chỉ sử dụng rất ít vũ khí hạt nhân. Ví dụ như: chỉ với một số lượng rất thấp vũ khí, hiểm họa sinh thái từ chiến tranh hạt nhân có khả năng sẽ xảy ra. Nghiên cứu mới đây cho thấy rằng chỉ cần sử dụng khoảng 100 hoặc 150 đầu đạn hạt nhân trong một cuộc xung đột giữa Pakistan và Ấn Độ cũng có thể gây nên một mùa đông hạt nhân đầy muội than trong khí quyển và thiêu rụi các thành phố lớn nhỏ. Điều này sẽ gây nên nạn đói toàn cầu.

Spiegel: Ông đánh giá thế nào về tình trạng vũ khí hạt nhân rơi vào tay bọn khủng bố?

Schell: Về lâu dài, mối nguy hiểm này đang tăng lên rõ ràng. Bản chất của kiến thức khoa học và công nghệ là nó sẽ ngày càng được phổ biến rộng rãi theo thời gian. Rồi sẽ đến thời điểm vũ khí hạt nhân vượt khỏi tầm kiểm soát của các quốc gia và rơi vào tay của các nhóm nhỏ hơn.

Spiegel: Các nhà máy điện hạt nhân được bảo vệ ở mức độ nào để chống lại các cuộc tấn công khủng bố?

Schell: Cho đến nay, các nhà máy điện hạt nhân đã thực hiện nhiều biện pháp an ninh hữu hiệu nhằm ngăn chặn hậu quả trên. Ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân đã thành công với biện pháp đơn giản: Xây dựng một nhà máy như vậy sẽ rất tốn kém.

Spiegel: Sự kiện thảm họa hạt nhân ở Nhật Bản lúc này phải chăng chính là ví dụ điển hình cho thấy con người không có khả năng học hỏi từ lịch sử? Một đất nước từng kinh qua thời khắc kinh hoàng của quả bom hạt nhân đầu tiên vẫn quyết định phụ thuộc vào nguồn năng lượng điện nguyên tử.

Schell: Kenzaburo Oe, nhà văn nhận giải Nobel Văn học, cho biết xúc tiến phát triển điện hạt nhân ở Nhật Bản là phản bội các nạn nhân trong vụ nổ bom nguyên tử ở thành phố Hiroshima. Nhưng có lẽ, thảm họa Fukushima sẽ là một bước ngoặt không chỉ thay đổi Nhật Bản, mà còn biến đổi thái độ của các quốc gia khác.

Spiegel: Xin cám ơn ông.

Philip Bethge và Gregor Peter Schmitz thực hiện trên Spiegel.

(Đa Minh dịch) – Thank you!

Fukushima: một cảnh cáo đối với nhân loại

Tác giả: Nguyễn Khắc Nhẫn

Diễn biến

Trận động đất hết sức lớn (8,9° Richter – đã làm xê dịch đảo Honshu của nước Nhật 2,4 m về hướng đông theo Viện địa chất Mỹ  USGS) và sóng thần kinh khủng tại vùng đông bắc Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã gây ra thảm họa đang diễn biến tại nhà máy điện hạt nhân tỉnh Fukushima (cách Tokyo 250 km về phía Bắc).

Về số lò điện hạt nhân, Nhật Bản đứng thứ ba với 55 lò (tỷ lệ điện hạt nhân là 30%) sau Pháp 58 lò (78%) và Mỹ 104 lò (20%).

Nhà máy Fukushima Daiichi 1 có 6 lò phản ứng (trong số đó, các lò 4-5-6 ngừng vận hành trước trận động đất vì đang được bảo trì) và nhà máy Fukushima Daini 2 cách đó 10 km có 4 lò phản ứng. Các lò Daiichi được xây cất vào đầu những năm 70 và các lò Daini vào những năm 80 bởi các Công ty General Electric, Toshiba và Hitachi. Kiểu lò nước sôi BWR (Boiled Water Reactor) này rất phổ biến ở Nhật khác với kiểu lò nước áp suất PWR (Pressurized Water Reactor) thông dụng trên thế giới, đặc biệt ở Pháp. Hai kiểu lò này tương đối an toàn hơn lò nhà máy Tchernobyl RBMK (Reaktor Bolchoi Mochtchnosti Kanalni) của Ukraine vì có vỏ bêtông cốt thép bọc lò dày 1,5m (enceinte de confinement) để ngăn cản phóng xạ thoát ra ngoài.

Ngày 11/3, ngay sau trận động đất xảy ra, các lò phản ứng ở Fukushima tự động ngừng hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống làm lạnh cần phải tiếp tục làm việc để giảm nhiệt độ dư rất cao trong lò. Không may, trận động đất đã làm tê liệt hệ thống cung cấp điện . Các máy phát điện dự phòng diesel được khởi động để cung cấp điện cho hệ thống làm lạnh nhưng chỉ một tiếng đồng hồ sau, tất cả các máy dự phòng này đều hỏng do sóng thần tràn vào. Nhà máy được thiết kế để chống sóng thần, nhưng mức nước lên cao quá 10 m! Có Pin tiếp cứu nhưng cũng không được lâu lắm và các xe phát điện di động thì lại đến quá trễ!

Thiếu hệ thống làm lạnh lò phản ứng, hơi nước sinh ra nhiều và làm tăng áp suất trong lò (840 kPa, gấp đôi mức bình thường).  Dù đã cố gắng xả hơi vào các không gian rộng hơn của nhà máy và kể cả xả ra ngoài không gian, TEPCO (Công ty Điện lực Tokyo) cũng không thành công trong việc làm giảm áp suất. Vào lúc 15h36 ngày 12/3 (giờ địa phương), một vụ nổ vì khí hydro đã xảy ra tại tòa nhà lò phản ứng số 1 (460 MW) của nhà máy Fukushima Daiichi. Vụ nổ làm tung bay một phần tòa nhà, nhưng lò phản ứng và vỏ bọc lò chưa bị thiệt hại. Tuy nhiên, cơ quan an toàn hạt nhân của Nhật thừa nhận rằng một phần tâm lò phản ứng (chứa các thanh nhiên liệu) đã bị nóng chảy. TEPCO quyết định bơm nước biển vào lò, để tránh các thanh nhiên liệu bị nóng chảy hoàn toàn. Biện pháp tuyệt vọng này, xem như hy sinh các lò sắp được hưu trí, vì nước biến sẽ làm gỉ vật liệu nhanh chóng. Để đối phó với sự cố xảy ra đối với tâm lò phản ứng, cần tiến hành theo ba bước sau: làm ngưng hoạt động lò phản ứng (được thực hiện), làm lạnh lò, và ngăn không cho chất phóng xạ thoát ra ngoài. Với những gì đã xảy ra thì việc thực hiện ở bước thứ hai và thứ ba đều không thành công. TEPCO đã kêu gọi cơ quan nguyên tử quốc tế (IAEA) và chuyên gia Mỹ đem nước làm lạnh đặc biệt mà vẫn không có kết quả khả quan.

Vấn đề tương tự cũng xảy ra đối với lò phản ứng số 3 (780 MW) thuộc nhà máy Fukushima Daiichi. Và sự lo ngại này đã thực sự đến khi xảy ra hai vụ nổ tại lò phản ứng này trong ngày 14/3. Như ở lò số 1, hydro được sinh ra do tương tác với vỏ thanh nhiên liệu.  Zr (Zirconium) nóng trên 1200°C, với nước, tạo ZrO2, tỏa ra 6500 kj/kg Zr. Khối lượng H2 sinh ra trong lò nước sôi có thể gấp đôi so với lò áp lực! Các chuyên gia Nhật chưa cho biết số thanh nhiên liệu (nhiên liệu Mox có plutonium rất độc) bị nóng chảy và cách phân bố trong lò. Trong trường hợp thủng lò, nhiên liệu nóng chảy vì nhiệt độ rất cao (trên 2000° C- 2500°C) có thể làm vỏ bọc lò bị nứt, để phóng xạ lan ra ngoài. Hiện tượng này đã được Đại học California nghiên cứu từ năm 1985. Cũng như lò phản ứng số 1, vỏ bọc lò phản ứng số 3 hình như vẫn chưa bị ảnh hưởng quan trọng.

Tuy nhiên, mối lo ngại lớn nhất lại nằm ở lò phản ứng số 2 (780 MW) của nhà máy này.  Mực nước trong lò phản ứng đã xuống rất thấp, điều này làm tăng nguy cơ tâm lò phản ứng bị nóng chảy. Các thanh nhiên liệu dài 3,71 m không được nước che lấp trên 3 m! Thậm chí, sau vụ nổ ở lò phản ứng số 3, TEPCO đã lo ngại không còn khả năng làm lạnh cho lò số 2.

Ngày 15/3 đến lượt lò số 2 bị nổ! Đồng thời ở lò số 4 (780 MW), hồ (piscine) chứa các thanh nhiên liệu của tâm lò đã sử dụng bị cháy! Hai lò 5 (780 MW) và 6 (1100 MW) cũng đang có vấn đề vì độ nóng lên cao. Ngày 17/3 TEPCO buộc phải sử dụng trực thăng lớn để đổ nước biển pha với Acide borique xuống nhà máy. Acide borique có đặc tính hấp thụ nơtrôn để tránh phản ứng dây chuyền có thể xảy ra. Mức phóng xạ cao nên phi công không thể hạ xuống dưới 150 m. Dung tich của hồ là 2000 tấn nước và mỗi giờ cần 50 tấn.

Cuối cùng Tepco phải huy động hàng chục xe cứu hỏa, sử dụng vòi phun nước rất mạnh với hy vọng che ngập khối thanh nhiên liệu đang bốc sôi trong lòng hồ nước để không cho  phóng xạ thoát ra ngoài trời. Về lâu dài, chuyên gia Nhật Bản đã nghĩ đến kế hoạch xây dựng quan tài bằng bêtông (Sarcophage) để bao trùm các lò như ở Tchernobyl. Ở đây Sarcophage thứ nhất đã bị rạn nức nhiều nơi ngay từ lúc đầu.  Sarcophage thứ hai trị giá 1 tỷ đôla đang được xây cất và sẽ có hiệu lực chỉ trong vòng 100 năm mà thôi!

Tình hình hiện nay tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima vô cùng nguy hiểm. Không riêng gì lò số 3 mà cả nhà máy có thể xem như không thể điều khiển được nữa! Trong số đội ngũ 800 nhân viên phụ trách vận hành chỉ còn 50 người hy sinh tính mạng phải ở lại. Bức tường phóng xạ vô hình, không màu, không mùi đã cấm nhân viên chuyên môn vào nhà máy cứu chữa, trừ những cảm tử quân! Câu điện vào nhà, đem nước vào hồ, bình thường thì có gì khó khăn? Ai cũng thừa biết Nhật Bản giỏi nhất thế giới về con người máy (Robot) thế mà nhân viên đành bó tay, chứng kiến bất lực thảm cảnh điêu tàn.

Tất cả mọi tình huống đều có thể xảy ra, kể cả tình huống đáng lo sợ nhất là tâm lò phản ứng bị nóng chảy hoàn toàn, gây nổ lò phản ứng và đẩy bụi phóng xạ ra ngoài không gian. Cơ quan an toàn Pháp đặt mức độ nghiêm trọng của Fukushima lên số 6 trên thang đo INES (International Nuclear Event Scale) nguy hiểm hơn biến cố Three Mile Island ở Mỹ (28/3/1979) và sau thảm họa Tchernobyl (26/4/1986) với mức độ cao nhất, số 7. Cơ quan an toàn Nhật Bản xếp Fukushima vào mức độ số 4 (hôm nay mới lên 5) có lẽ để cho dư luận khỏi hoang mang? Dân chúng Nhật Bản, tuy có tinh thần kỷ luật đáng kính phục, nhưng họ bắt đầu lên tiếng chỉ trích chính phủ và TEPCO về cách quản trị tình hình với nhiều thông tin không chính xác? TEPCO đã nhiều lần bị chính phủ cảnh cáo và phạt nặng vì đã gian trá (200 báo cáo không đúng sự thật trong 20 năm!) và giấu giếm nhiều tài liệu tối quan trọng về an toàn.

Nguy cơ ô nhiễm phóng xạ đang là nỗi lo sợ lớn nhất hiện nay của Nhật Bản và các nước láng giềng. Sau vụ nổ ở lò phản ứng số 1, lượng phóng xạ đo được trong phòng điều khiển của lò phản ứng cao gấp 1000 lần so với mức bình thường. Mức phóng xạ ở khu lò số 3 ngày 12/3 đã lên đến 400 mSv/h! (1). Những “liquidateurs“ ở Tchernobyl, tử nạn một tháng sau thảm họa, đều hấp thụ hơn 6000 mSv/h! Về tiềm năng của chất phóng xạ, nên biết rằng tổng công suất 6 lò của nhà máy  Fukushima là 4680 MW, gần 5 lần lớn hơn công suất của lò (1000  MW) bị nổ ở Tchernobyl. Chất điều độ (modérateur) của lò Tchernobyl là graphite, dễ cháy, chứ không phải là nước như ở các lò Fukushima (Xin mời quý bạn xem bài RFI phỏng vấn tôi về Tchernobyl ngày 26/4/2006).

Tình hình đến hôm nay có thể tóm tắt như sau: 3 tâm lò bị nóng chảy (lò 1-70%,lò 2- 33%), 2 hỏa hoạn ở hồ chứa nhiên liệu, 5 vụ nổ hydro. Trong 5 lò, các thanh nhiên liệu đã sử dụng tiếp xúc trực tiếp với khí quyển. Số nhiên liệu tích trữ ở trong các hồ nước đang sôi bằng 4 lần số nhiên liệu trong các thùng lò. Một đường giây điện đã được nối vào nhà máy ngày 19/3 với mục đích phục hồi hệ thống làm lạnh. Nhà chức trách đã ra lệnh sơ tán hơn 200.000 dân cách 20 – 30 km xung quanh nhà máy điện hạt nhân. Dân ngoại quốc ớ Tokyo cũng hoang mang và bắt đầu rời kinh đô.

Ở khu vực nhà máy điện  Fukushima, nước biển, sữa, rau, hải sản đã bị ô nhiểm. Dân chúng còn ở đây đang ở trong tình trạng không đựơc ra ngoài, không có thức ăn, không có nước uống!  Ngay ở Tokio, nước cho trẻ con cũng bắt đầu làm dân chúng hết sức hoang mang.

Tùy hướng gió bay, một khi lên cao, làn mây phóng xạ có thể lan tràn rất xa, bay qua nhiều nước trên thế giới như làn mây Tchernobyl. Kamchatka (Nga) và  California (Mỹ)  đã có dấu vết bị nhiễm phóng xạ Iode I-131 và Césium Cs-137. Sản phẩm phân hạch Strontium Sr-90 thì khó phát hiện hơn. Thời gian phân hủy một nửa của các chất độc này là: Césium 137 (30 năm), Strontium 90 (28 năm), Iode 131 (8 ngày). Làn mây phóng xạ đầu tiên, chưa tai hại sức khỏe, đã đến Pháp hôm nay. Rồi đây sẽ còn nhiều làn mây khác!

Nếu có mưa trong các ngày tới thì tình hình càng thêm phức tạp, bởi chất phóng xạ sẽ theo mưa rơi xuống đất, gây ô nhiễm nguồn nước, sản xuất nông nghiệp. Ngay cả trong tình huống mong đợi nhất là các lò phản ứng được khống chế, sau khi tình trạng khẩn cấp qua đi, cần phải tiếp tục công tác khử nhiễm, ban bố lệnh cấm sử dụng và buôn bán thực phẩm được sản xuất ở địa phương này.

Hậu quả

Dư luận thế giới xôn xao lo sợ và những đoàn thể chống điên hạt nhân đang lên tiếng dữ dội. Cộng đồng Âu Châu (143 lò), Pháp, Ấn Độ, Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác đã ra lệnh kiểm soát chặt chẽ và củng cố tất cả các nhà máy điện hạt nhân để đối phó với mọi rủi ro tai biến. Cộng đồng Âu Châu đang muốn thống nhất các tiêu chuẩn an toàn.

Bà Angela Meken đã quyết định đóng cửa tạm thời 7 nhà máy điện hạt nhân của Đức  xây cất trước 1981,  tạm đình chỉ việc cho gia hạn kéo dài thời gian vận hành của  nhiều nhà máy khác và dần dần từ bỏ điện hạt nhân. Cũng như Vénézuéla, Thụy Sĩ cho hoãn lại các dự án xây cất nhà máy điện hạt nhân. Trung Quốc cũng ngưng cấp giấy phép làm những nhà máy điện hạt nhân mới.

Với những tai biến dồn dập, ngoài con số khủng khiếp tạm thời, trên 25.000 người tử nạn và mất tích. Nhật Bản đã mất trên 165 tỷ đôla, có ảnh hưởng quan trọng đến mức tăng trưởng kinh tế.

Thị trường chứng khoán thế giới trong những ngày qua rúng động như bị Tsunami: 67 tỷ đô của  65 công ty quốc tế về điện hạt nhân đã bay ra khói. Tepco – 57%, Toshiba -30%, Japan Steel Works -38%, Kepco – 23%, Areva -18%, EDF-10, 6%, RWE -8,6%… Ngược lại, giá trị những công nghiệp năng lượng tái tạo tăng lên bội phần.

Trên toàn cầu hiện nay có 450 lò điện hạt nhân đang vận hành. Tỷ lệ điện hạt nhân chỉ chiếm 15%, có nghĩa là việc thay thế điện hạt nhân trong bản tổng kết năng lượng (bilan énergétique) thế giới không phải là không có lời giải thỏa đáng.

Như ở Mỹ, sau biến cố thủy triều dầu mỏ, nhiều nước sẽ xét lại và sửa đổi luật lệ an toàn khắt khe hơn trước nhiều, làm tăng vọt giá điện. Dân chúng vùng California lo sợ cho 2 nhà máy Diablo Canyon (2 x 1100 MW) và San Onofre (2 x 1100 MW)  nếu có động đất lớn. Lý do khác làm giá điện tăng mạnh cũng vì các nước sẽ hết sức thận trọng trước khi cấp giấy phép cho gia hạn thời gian vận hành các lò từ 30 đến 40, 50 hay 60 năm (trường hợp Fessenheim 2 x 900 MW của EDF vận hành từ 1977 -1978). Nên nhớ rằng gia hạn một lò tốn hàng trăm triệu đôla và thùng lò cũng như vỏ bọc lò không thể đổi mới được. Mức an toàn càng tăng thì giá điện lại càng cao. Nói rằng giá thành kWh điện hạt nhân kinh tế là dối trá . Kinh phí dành cho công trình tháo gỡ một nhà máy điện hạt nhân có thể cao bằng hay cao hơn kinh phí đầu tư của nhà máy ấy! Ví dụ điển hình là ở Pháp, công trình tháo gở nhà máy Brennilis,(lò nước nặng 70 MW), cách Brest 60 km, (xây cất năm 1962 và được tháo gỡ từ năm 1985 mà nay vẫn chưa xong), đã tốn gần 650 triệu đôla, 20 lần cao hơn phí tổn ước lượng! Phí tổn này có thật sự nằm trong bài tính kinh tế về giá thành kWh không? Có công nghiệp nào  ác nghiệt mà thời gian và kinh phí tháo gở cao hơn thời gian và kinh phí xây cất nhà máy không?

Như tôi đã nhấn mạnh nhiều lần từ lâu, một tai biến lớn như Tchernobyl có thể làm lung lay hay sập đổ công nghiệp hạt nhân, tuy đồ sộ nhưng vô cùng mỏng manh.Vì biến cố Three Mile Island (tâm lò bị nóng chảy 50%) mà 30 năm nay Mỹ khớiông xây cất thêm một nhà máy điện hạt nhân nào cả.

Pháp

Nước Pháp, nhất nhì trên toàn cầu về số cơ sở nguyên tử, đang rất lo lắng và đặt nhiều câu hỏi về phương diện an toàn. Với 58 lò rải rác trong 19 nhà máy, tỷ lệ điện hạt nhân 78% cao nhất thế giới. Trung bình, mỗi người dân Pháp ở cách xa nhà máy điên hạt nhân tối đa chỉ 300 km. Đảng Xanh đã lên tiếng đề nghị chính phủ trưng cầu dân ý và đóng cửa ngay các nhà máy cũ hay ở vùng dễ bị động đất như Fessenheim (2 x 900 MW) và Tricastin (4 x 900 MW). Những nhà máy EDF trên nguyên tắc chỉ có thể chống cự lại với các trận động đất dưới 7° hay 8° Richter mà thôi. Về cách tính toán, EDF dựa trên trận động đất xưa nhất biết được trong vùng và tăng con số thêm một ít cho khoảng an toàn. Ví dụ nhà máy Fessenheim, EDF dựa trên trận động đất 6,2° Richter ở Bale năm 1356 và tăng thêm 0,5 thành 6,7. Gần Bordeaux, nhà máy Blayais (4 x 900 MW) suýt nữa bị nước tràn ngập trong trận bão lớn năm 1999.

Dân chúng ở vùng Paris không an tâm lắm vì nhà máy Nogent (2 x 1300 MW) chỉ cách kinh đô 120 km! Theo cơ quan an toàn hạt nhân Pháp, trong năm 2010, EDF đã phải đối phó với 1000 sự cố số 1 và 2 (trên thang đo INES)  xảy ra trong các nhà máy điện hạt nhân. Chính phủ đặt tin tưởng vào lò thế hệ thứ ba EPR-1600 MW (European Pressurized Reactor) đang xây cất ở Flamanville. Lò này cũng đang được xây cất ở Phần Lan nhưng bị trễ 3 năm trời, làm cho Areva mất hàng tỷ đôla. Lẽ cố nhiên, những lò thế hệ 3 như EPR, hết sức đắt tiền, an toàn hơn lò thế hệ 2, PWR hay BWR. Tuy nhiên lò thế hệ 3 nào (kể cả AP1000) cũng chỉ là một kiểu lò tiến hóa (évolutionnaire) vừa dựa trên kinh nghiệm quý báu của lò thế hệ 2, vừa được bổ sung với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, chứ không có tính cách cách mạng. Ví dụ, với các lò Fukushima sử dụng nguyên lý an toàn chủ động (Active Safety Features) cần đến nguồn điện cấp cứu Diesel cho hệ thống làm lạnh, các lò thế hệ 3 áp dụng nguyên lý an toàn thụ động. Trong tương lai, lò thế hệ 4 cũng không thể nào bảo đảm an toàn như có người mơ tưởng!

Việc mở cưả thị trường điện lực, các Công ty tư nhân, vì coi trọng vấn đề lợi nhuận hơn cả, nên kinh phí dành cho khâu tu bổ , kiểm tra  an tòan ngày càng kém. Trong đội ngủ 45.000 nhân viên chuyên môn phụ trách khai thác 58 lò của EDF, 25.000 người ngoài Công ty được thầu lại (sous-traitant) , làm sao an tâm? Năm 2006, chuyên gia Mỹ đã lưu ý Tepco về một số nguy biến có thể xẩy ra, đặc biệt vì sự cẩu thả ở  khâu bảo trì .

Cũng như ở Đức và nhiều nuớc khác, Pháp sẽ phải thay đổi chiến lược dài hạn về năng lượng và dần dần hạ thấp tỷ lệ điện hạt nhân. Nhiều chuyên gia chống điện hạt nhân đã tuyên bố rằng Pháp có thể dần dần bỏ điện hạt nhân trong vòng 25-30 năm nữa bằng cách tiết kiệm và tăng hiệu suất năng lượng (-50%) và triệt để sử dụng năng lượng tái tạo (+ 80%) và khí (+ 20%).

Việt Nam

Trong số 20 bài tôi viết (2)  từ năm 2003 với tất cả nhiệt tình dành cho quê hương, tôi đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên xây cất nhà máy điện hạt nhân vì nhiều lý do: an toàn, chuyên gia, nhân lực, kinh tế, tài chính, môi trường, rủi ro nguy hiểm, lưu trữ chất thải phóng xạ…Chính sách năng lượng của nước ta, cũng như của tất cả các nước trên thế giới, phải dựa trên việc triệt để tiết kiệm, sử dụng có hiệu lực năng lượng, khai thác tất cả các nguồn năng lượng tái tạo. Tổn thất năng lượng ở Việt Nam hiện nay có thể lên đến 35-40%! Theo tôi, không có con đường nào khác. Tại sao người ta đi ra mình lại đi vào? Làm một lò điên hạt nhân là kẹt cả môt thế kỉ (50 năm vận hành và 50 năm để tháo gở!)

Như tôi đã có dịp trình bày trong baì phỏng vấn của RFI về công trình thủy điện Sơn la các nhà máy điện hạt nhân tương lai ở Ninh Thuận cũng nằm trong vùng có thể bị động đất lớn. Những vệ tinh đã phát hiện vết nứt (faille) sông Hồng dài 1000 km từ Tây Tạng đến khu miền Bắc và về phía nam, dọc theo bờ biển nước ta. Vết nứt tuốt (coulissant) theo đường rảnh, trung bình 1 cm mỗi năm, có thể làm xê dịch từng cơn: sông, thung lũng, bãi phù sa… mỗi khi có động đất đáng kể. Đất nước ta eo hẹp, nhất là ở mìền Trung, nếu có biến cố xẩy ra, đồng bào ta sẽ phải làm nhà ở dưới biển hay sao?

Về khâu xử lý chất thải phóng xạ, hết sức nguy hiểm và đắt tiền, có cơ quan trách nhiệm bên nhà đã tuyên bố rằng sẽ không có vấn đề gì vì ta sẽ giao trọn cho công ty ngoại quốc bán lò đem chất thải về nước họ giải quyết lấy! Đâu phải dễ như thế. Thảm họa Fukushima diễn ra trong lúc những thanh nhiên liệu còn ở trong các lò hay trong các hồ chứa nước!

Tai biến Three Mile Island, Tcherrnobyl không vì rủi ro mà vì thiết kế không hòan bị và nhất là vì nhân viên thiếu trình độ hay kinh nghiệm. Chủ yếu rốt cuộc vẫn là ở con người. Với nhân lực và ngân sách eo hẹp của nước ta, tại sao lại cả gan xung phong vào một lĩnh vực đầy chông gai hiểm trở, xây dựng liên tíếp 8 lò từ 2014 đến 203O? Kinh phí khổng lồ, 30 tỷ đôla này, để dành cho năng lượng tái tạo và các linh vực ưu tiên khác như giáo dục, nghiên cứu, y tế , xã hội có ích lợi hơn cho đồng bào không?
Vì sự sống còn của dân tộc, của những thế hệ con cháu sau này, tôi thiết tha đề nghị Chính phủ Viet Nam rút lui có trật tự, cương quyết hủy bỏ chương trình điện hạt nhân ngay từ bây giờ, đúng thời, hợp lý, để tránh thảm họa cho đất nước.“Chúng ta không thừa hưởng đất đai của tổ tiên, chúng ta mượn tạm của con cháu” (Saint-Exupéry).

Theo tôi, làm điện hạt nhân là khiêu khích tạo hóa. Đến năm 2030, thì năng lượng tái tạo  đã trưởng thành và kinh tế từ lâu. Thế giới đang đi vào một con đường bế tắc, hết sức nguy hiểm. Điện hạt nhân không phải là lời giải cho bài toán năng lượng và hòa bình của nhân loại và đặc biệt cho các nước như ta. Các giới có thế lực tiếp tục lợi dụng hiện tượng thay đôi khí hậu để đề cao vai trò điện hạt nhân. Tuy nhiên, đổi CO2 với hạt nhân, thì chẳng khác nào như đổi Sida với dịch tả!

Ta không nên mặc cảm: không đi vào con đường điện hạt nhân không phải là ta “không có đầu óc thông minh”, ngược lại, tôi tin rằng người Việt Nam ta vốn không “nhẹ dạ, cả tin”, không “lên gân làm oai”, đủ tri thức để biết chọn con đường phát triển vững chắc, đồng thời tránh được “khuynh gia bại sản”, và hậu quả tai hại cho con cháu.

Thay lời kết luận

Fukushima có thể xem như tượng trưng cho chấn tâm (épicentre) của cuộc động đất khủng khiếp đang diễn ra trong công nghiệp điện hạt nhân. Tại sao Nhật  Bản lại cả gan xây cất 55 lò điện hạt nhân, cạnh bờ biển,  trên một mảnh đất eo hẹp đầy nguy biến? Hình ảnh điêu tàn của thảm kịch Hirochima và Nagasaki đã lu mờ trong kí ức của các nhà lãnh đạo chính trị và khoa học của đất nước này hay sao? Chúng ta nghĩ gì khi nghe Thị trưởng Tokyo tuyên bố rằng thảm họa Fukushima là một sự trừng phạt của Thượng Đế? Những vụ nổ liên tíếp ở nhà máy, tâm lò nóng chảy, vỏ lò rạn nứt, gây ra lỗi lầm không thể vãn hồi, không thể đảo ngược được. Theo nữ văn sĩ Biélorusse, Svetlana Alexievitch, trong một bài phỏng vấn của báo Libération ngày 20/3: “Cái chết vô hình đã thắm dần vào máu và thân thể người dân đất Nhật. Chúng ta đã trả một giá quá đắt cho sự tiến triển khoa học. Công nghệ cao siêu chỉ để phục vụ cho sự yếu đuối con người. Nhân loại đang giẩm chân trên con đường tự hủy diệt. Rất tiếc rằng người ta không biết rút kinh nghiệm của bài học Tchernobyl!“

Trước tai biến này, Viện sĩ Anatoli Alexandrov đã giám quả quyết rằng những nhà máy của Liên Xô có thể được xây dựng ngay tại Place Rouge vì hết sức an tòan! Sergueï Kirenko của Rosatom (Nga) mới đây, đã tuyên bố rằng họ sẽ bán cho Viet Nam và Indonésie những nhà máy điện hạt nhân lưu động ở ngoài khơi, vừa rẻ tiền, vừa an tòan!  Có ai xung phong sống cạnh những Híroshima trôi nỗi này bên bờ đại dương không?

Một chuyên gia hàng đầu về lò hạt nhân của Mỹ, Giáo Sư Arnold Gundersen, đã tuyên bố rằng hiện nay không nên xây cất thêm một nhà máy điện hạt nhân nào khác trên thế giới, cần phải đợi cho đến lúc các chính phủ lượng định lại mức độ nguy hiểm tối đa như thế nào . Lẽ cố nhiên, tôi ủng hộ lập trường này.

Những cường quốc phải thay đổi cách nhìn và cách sống. Các giới có thế lực (lobby) tiếp tục muốn duy trì công nghiệp điện hạt nhân, không những đã lỗi thời, mà còn vô cùng tai hại cho hàng trăm thế hệ con cháu sau này.

Các nhà khoa học và chính trị gia cần có thái độ khiêm tốn hơn nữa trước sức mạnh mênh mông của tạo hóa. Mọi tầng lớp dân chúng đều có quyền cho ý kiến trước khi nhà chức trách thực hiện những dự án quan trọng hay áp dụng những biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của cá nhân họ và của đất nước. Tại sao không tổ chức cuộc trưng cầu dân ý ở khắp nơi? Nước Ý sẽ bắt đầu trong tháng sáu này.

Các công ty quốc tế hạt nhân không thể cứ thản nhiên xem đồng đôla quý hơn môi trường và sinh mạng con người! Đã đến lúc cần nói lên sự thật thay vì dối trá với dân chúng!

Nhắc lại thảm họa Hiroshima và Nagasaki, Kenzaburô Oé, Nobel văn chương Nhật Bản 1994, trong một bài phỏng vấn của báo Le Monde ngày 17/3 diễn tả tâm trạng như sau:“Lịch sử Nhật Bản đang đi vào một giai đoạn mới và một lần nữa chúng ta bị những nạn nhân hạt nhân nhìn ngó, những người đã tỏ ra hết sức can đảm trong nỗi đau thương. Người Nhật, đã có kinh nghiệm lửa nguyên tử, không được nghĩ đến năng lượng hạt nhân bằng khả năng sản xuất công nghệ“.

Ai mà không động lòng rưng nước mắt khi nhìn thấy dân chúng Nhật Bản quằn quại đau khổ như thế? Ai không kính phục hàng chục, hàng trăm người đang hy sinh tính mạng để cho làn mây phóng xạ khỏi rải chất độc trên khắp trái đất?

Cũng như Tchernobyl, Fukushima đang cảnh cáo nhân lọai. Tiếng nổ long trời lở đất và sóng thần khủng khiếp ở xứ hoa đào xấu số này, rồi đây, sẽ chận đứng sự bành trướng của công nghiệp điện hạt nhân trên thế giới. Tôi hy vọng rằng nó sẽ làm lay chuyển lương tâm của những nhà khoa học hay chính trị gia, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với nhân loại nói chung và đối với dân với nước của họ nói riêng.

Nguyễn Khắc Nhẫn

Nguyên Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris,

GS Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble,

GS Trường Đại học Bách khoa Grenoble.

(1) Sievert (Sv): liều tương đương phóng xạ dùng để đo tác động sinh vật trên cơ thể. Đó là một đơn vị đề phòng phóng xạ.

1 Sv (Sievert) = 100 rem (Tchernobyl: 800-1600 rems)

(1 Sv = 1000 mSv) (chiếu phổi: 0.1 rem)

(2) www.vietsciences, caodangdienhoc, ugvf, tailieu.tapchithoidai, diendan.org

Đọc thêm:

Sự kiêu ngạo của khoa học

Nhà vật lý Torahiko Terada viết năm 1934: “Con người càng văn minh, thì cái vòng bạo lực của thiên nhiên ngày càng lớn”. Gần 67 năm sau, những từ mà ông từng viết trở nên chính xác hơn bao giờ hơn.

Con người ngày càng trở nên kiêu ngạo, tin là họ đã chinh phục được thiên nhiên. Chúng ta xây những công trình lớn hơn, vĩ đại hơn. Các nhà khoa học và kỹ thuật tin rằng họ làm như vậy để đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhưng họ đã quên mất trách nhiệm lớn hơn đối với xã hội của họ, mà chỉ nhấn mạnh vào những khía cạnh tích cực của nỗ lực đó. Thảm họa ở Fukushima Daiichi thể hiện rõ hiện tượng này.

Dù động đất ở Nhật là chuyện thường xuyên, và nước Nhật được mô tả là “quốc gia nằm trên miếng đậu phụ”, nước Nhật đã xây dựng 54 lò phản ứng hạt nhân dọc bờ biển, đối mặt với nguy cơ bị sóng thần tấn công cực lớn. Đáng lý chúng ta cần phải nghĩ tới khả năng siêu động đất sẽ xảy ra, và nếu các nhà máy không thể chịu đựng được mức động đất đó, thì đáng lý không được phép xây dựng các nhà máy đó. Ngoài ra, hệ thống điện giúp hệ thống làm lạnh hoạt động đã chết cứng cho thấy sai sót trong thiết kế là quá lớn. Bơm nước biển để làm nguội là giải pháp trong tình thế tuyệt vọng. Một kịch bản thất bại liên hoàn là điều có thể đoán trước.

Cách nay vài năm, mức tiêu thụ điện ở Nhật vào những ngày nghỉ hè khi mọi người về thăm quê hương ở mức mà ngay cả khi tất cả các nhà máy điện hạt nhân dừng hoạt động, vẫn có đủ điện cho tất cả. Nhưng ngày nay, năng lượng hạt nhân đã trở thành một phần không thể thiếu trong cả đời sống công nghiệp và sinh hoạt hàng ngày. Việc sử dụng năng lượng quá mức đã trở thành một phần tính cách của chúng ta. Đó lại là hiện tượng mà chúng ta không còn suy nghĩ nhiều tới nó nữa.

Nhật Bản đã đạt tới trình độ cực kỳ cao nhờ khoa học và công nghệ, nhưng chúng ta không thể phủ nhận rằng nó đã khiến chúng ta ngạo nghễ, cướp đi từ chúng ta khả năng tưởng tượng và phỏng đoán về thảm họa. Chúng ta đã sụp bẫy, sự văn minh đã khiến chúng ta trở nên đờ đẫn

— SATORU IKEUCHI, nhà thiên văn học tại Đại học chuyên đào tạo tiến sỹ các ngành học cao cấp (Graduate University for Advanced Studies, Sokendai )

P.S: Với rất nhiều sự kiện mà mình chứng kiến, có rất nhiều thứ mà sự hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, tuổi đời không cho phép mình đưa ra kết luận. Đa phần trong những trường hợp đấy, chỉ còn biết dựa vào ý kiến các chuyên gia đầu ngành…

Tin ai? Ai tin?